Đề xuất quy định xử phạt vi phạm hành chính trong Luật Đất đai 2024, mức cao nhất lên tới 1 tỷ đồng
Đề xuất xử phạt hành chính 27 hành vi vi phạm theo Luật Đất đai 2024
Dự thảo Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai gồm có 4 Chương, 42 Điều. Nghị định quy định các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai bao gồm vi phạm trong sử dụng đất và vi phạm trong thực hiện dịch vụ về đất đai nhằm bổ sung, làm rõ hơn các hành vi vi phạm đã được quy định trong Luật Đất đai 2024.
Theo đó, 27 nhóm hành vi vi phạm hành chính về đất đai quy định theo dự thảo Nghị định, bao gồm:
(1) Sử dụng đất trồng lúa vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép;
(2) Sử dụng đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép;
(3) Sử dụng đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, không phải là đất rừng phòng hộ, không phải là đất rừng đặc dụng, không phải là đất rừng sản xuất vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép;
(4) Sử dụng các loại đất khác sang đất chăn nuôi tập trung khi thực hiện dự án chăn nuôi tập trung có quy mô lớn không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép;
(5) Sử dụng đất trong nhóm đất phi nông nghiệp vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định tại các điểm d, đ, e, g khoản 1 Điều 121 của Luật đất đai;
(6) Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa không đúng quy định; sử dụng đất vào mục đích khác thuộc trường hợp phải đăng ký mà không đăng ký theo quy định;
(7) Sử dụng đất đa mục đích không đúng quy định;
(8) Lấn đất;
(9) Chiếm đất;
(10) Hủy hoại đất;
(11) Cản trở, gây khó khăn cho việc sử dụng đất của người khác;
(12) Không đăng ký đất đai;
(13) Chuyển quyền, cho thuê, thế chấp bằng quyền sử dụng đất khi không đủ điều kiện theo quy định;
(14) Chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án bất động sản không đủ điều kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 45 Luật Đất đai;
(15) Tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp mà không có phương án sử dụng đất theo quy định tại khoản 6 Điều 45 Luật Đất đai;
(16) Cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa vượt quá hạn mức theo quy định tại Điều 176 Luật Đất đai mà không thành lập tổ chức kinh tế và không có phương án sử dụng đất trồng lúa;
(17) Nhận chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất vi phạm khoản 8 Điều 45 Luật Đất đai;
(18) Chuyển quyền, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp đối với đất không thuộc trường hợp được chuyển quyền, cho thuê, thế chấp theo quy định của Luật đất đai;
(19) Nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế xã hội không đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 127 Luật Đất đai;
(20) Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không đúng quy định;
(21) Không nộp hồ sơ, không cung cấp, cung cấp không đầy đủ giấy tờ để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng, nhận chuyển quyền sử dụng đất tại dự án kinh doanh bất động sản;
(22) Không sử dụng đất trồng cây hàng năm trong thời hạn 12 tháng liên tục, đất trồng cây lâu năm trong thời hạn 18 tháng liên tục, đất trồng rừng trong thời hạn 24 tháng liên tục;
(23) Không làm thủ tục chuyển sang thuê đất đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 255 Luật Đất đai;
(24) Vi phạm quy định về quản lý chỉ giới sử dụng đất, mốc địa giới hành chính;
(25) Vi phạm quy định về giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất;
(26) Vi phạm quy định về cung cấp thông tin đất đai liên quan đến thanh tra, kiểm tra, thu thập chứng cứ để giải quyết tranh chấp đất đai;
(27) Vi phạm điều kiện về hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực đất đai.
Mức phạt cao nhất với cá nhân lên tới 500 triệu đồng, với tổ chức là 1 tỷ đồng
Theo dự thảo, chuyển đất trồng lúa sang mục đích khác mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép (gồm chuyển đổi sang đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng, đất nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi tập trung, đất làm muối, đất nông nghiệp khác) sẽ bị phạt từ 3 – 50 triệu đồng.
Riêng việc chuyển đất trồng lúa sang đất ở tại khu vực nông thôn mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép sẽ bị phạt tiền từ 50 - 250 triệu đồng; chuyển đất trồng lúa sang đất ở tại khu vực đô thị có thể bị phạt tới 400 triệu đồng.
Biện pháp khắc phục hậu quả là buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm, trừ trường hợp đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử hữu tài sản gắn liền với đất hoặc thuộc trường hợp phải thu hồi đất nhưng được tạm thời sử dụng đất cho đến khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Điều 139 Luật Đất đai; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
Đối với việc chuyển đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không phải đất thương mại, dịch vụ sang đất thương mại, dịch vụ tại khu vực nông thôn sẽ bị phạt cao nhất lên tới 250 triệu đồng nếu diện tích đất vi phạm từ 3ha trở lên; đối với khu vực đô thị thì mức xử phạt tối đa không quá 500 triệu đồng đối với cá nhân và không quá 1 tỷ đồng đối với tổ chức. Mức phạt tối đa này cũng được áp dụng với trường hợp lấn đất chưa sử dụng, đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị.
Đối với hành vi không đăng ký đất đai lần đầu sẽ bị phạt từ 2 – 5 triệu đồng; trường hợp không thực hiện đăng ký biến động đất đai theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Luật Đất đai tại khu vực nông thôn thì bị phạt tiền từ 2 – 5 triệu đồng, tại khu vực đô thị sẽ tăng gấp 2 lần mức phạt và buộc làm thủ tục đăng ký đất đai theo quy định.
Đối với hành vi chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án bất động sản không đủ điều kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 45 Luật Đất đai sẽ phạt tiền từ 100 – 500 triệu đồng; buộc chủ đầu tư phải hoàn thành việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo dự án đã được phê duyệt; hoàn thành nghĩa vụ tài chính liên quan đến đất đai và các thủ tục khác để đủ điều kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 45 Luật Đất đai cũng như buộc phải nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm…
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, việc bản hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là cần thiết nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, chặt chẽ và khả thi cho việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm, tăng tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật. Việc ban hành Nghị định theo Luật Đất đai 2024 không làm tăng biên chế, không tạo ra yêu cầu về bổ sung nguồn nhân lực cho bộ máy nhà nước, không tạo ra sự cồng kềnh trong tổ chức, biên chế của Nhà nước và các tổ chức thực hiện dịch vụ trong lĩnh vực đất đai.