dd/mm/yyyy

Đối tượng tổ chức cho người Trung Quốc ở lại Việt Nam trái phép đối diện với mức án nào?

Theo luật sư, đối tượng môi giới, tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt có thể lên đến 15 năm tù

Phạt tù đối tượng nhập cảnh trái phép

Thời gian gần đây, các cơ quan chức năng của Việt Nam liên tục phát hiện người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt Nam. Quá trình điều tra, cơ quan công an xác định có nhiều đường dây tổ chức đưa người Trung Quốc nhập cảnh trái phép. 

Theo thạc sỹ, luật sư Đặng Văn Cường- Trưởng văn phòng luật sư Chính Pháp (Đoàn luật sư TP Hà Nội), trước tình trạng người nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Việt Nam với số lượng ngày càng lớn, có thể mang theo mầm bệnh nguy cơ làm bùng phát dịch bệnh ở Việt Nam và nhiều nguy cơ gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, nên việc điều tra xác minh làm rõ nguyên nhân, truy tìm các đối tượng nhập cảnh, cư trú trái phép và xử lý nghiêm minh đối với các đối tượng vi phạm là cần thiết để đảm bảo an ninh an toàn và phòng chống dịch bệnh trong giai đoạn hiện nay.

Nếu để lọt các đối tượng có nguy cơ lây nhiễm, có mầm bệnh thì không chỉ dẫn đến nguy cơ bùng phát dịch bệnh trở lại mà còn ảnh hưởng đến an ninh chính trị, an toàn trật tự xã hội. Bởi lẽ, ngoài nguy cơ lây lan dịch bệnh, một số đối tượng nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam còn với mục đích hoạt động phi pháp, thực hiện những hành vi trái pháp luật như sản xuất, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tổ chức đánh bạc trên mạng internet với quy mô xuyên quốc gia hay gây bạo động lật đổ chính quyền, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị.

Đối tượng tổ chức cho người Trung Quốc ở lại Việt Nam trái phép đối diện với mức án nào? - Ảnh 1.

Đối tượng người Trung Quốc trong đường dây đưa người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Đà Nẵng và Quảng Nam mới bị cơ quan công an bắt giữ. Ảnh: LH

Việc kiểm soát an ninh đối với người nước ngoài là thật sự cần thiết. Nếu phát hiện các trường hợp nhập cảnh trái phép cần xử lý thật nghiêm để thể hiện tính răn đe, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. 

Hành vi nhập cảnh trái phép, cư trú trái phép tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hành vi nguy hiểm cho xã hội bởi vậy hoàn toàn có thể truy cứu trách nhiệm hình sự để đảm bảo an ninh an toàn cũng như phòng chống dịch bệnh trong giai đoạn hiện nay. Cần thiết có thể có văn bản hướng dẫn chi tiết hoặc sửa đổi quy định tại điều 347 bộ luật hình sự năm 2015 để tăng cường các chế tài nghiêm khắc hơn với hành vi nhập cảnh, cư trú trái phép ở Việt Nam trong thời điểm dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

Việc nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam được pháp luật Việt Nam quy định rất chặt chẽ.

Theo quy định tại Điều 20 Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 quy định người nước ngoài được nhập cảnh khi có đủ các điều kiện sau đây: Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế và thị thực; Người nước ngoài nhập cảnh theo diện đơn phương miễn thị thực thì hộ chiếu phải còn thời hạn sử dụng ít nhất 06 tháng và phải cách thời điểm xuất cảnh Việt Nam lần trước ít nhất 30 ngày;

Người không thuộc trường hợp chưa cho nhập cảnh quy định tại Điều 21 của Luật này, bao gồm: Không đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này; Trẻ em dưới 14 tuổi không có cha, mẹ, người giám hộ hoặc người được ủy quyền đi cùng; Giả mạo giấy tờ, khai sai sự thật để được cấp giấy tờ có giá trị nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú; Người bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh truyền nhiễm gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng; Bị trục xuất khỏi Việt Nam chưa quá 03 năm kể từ ngày quyết định trục xuất có hiệu lực; Bị buộc xuất cảnh khỏi Việt Nam chưa quá 06 tháng kể từ ngày quyết định buộc xuất cảnh có hiệu lực; Vì lý do phòng, chống dịch bệnh; Vì lý do thiên tai; Vì lý do quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

"Như vậy, theo quy định trên thì việc nhập cảnh vào nước ta phải đảm bảo các điều kiện theo quy đinh của pháp luật. Mọi trường hợp nhập cảnh trái phép đều được coi là hành vi vi phạm pháp luật và tuỳ từng tính chất, mức độ có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. 

Cụ thể, điều 17 Nghị định 167/2013/NĐ- CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tư, an toàn, xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình như sau: Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với một trong những hành vi như: Người nước ngoài nhập cảnh, hành nghề hoặc có hoạt động khác tại Việt Nam mà không được phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam; giúp đỡ, chứa chấp, che giấu, tạo điều kiện cho người khác đi nước ngoài, ở lại nước ngoài, vào Việt Nam, ở lại Việt Nam hoặc qua lại biên giới quốc gia trái phép; Cá nhân, tổ chức ở Việt Nam bảo lãnh hoặc làm thủ tục cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam, xin cấp thị thực, cấp thẻ tạm trú, gia hạn tạm trú, giấy tờ có giá trị nhập cảnh, cư trú tại Việt Nam nhưng không thực hiện đúng trách nhiệm theo quy định của pháp luật hoặc khai không đúng sự thật khi bảo lãnh, mời hoặc làm thủ tục cho người nước ngoài nhập cảnh, xin cấp thị thực, cấp thẻ tạm trú, gia hạn tạm trú, giấy tờ có giá trị nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại Việt Nam.

Trường hợp người nước ngoài nhập cảnh, cư trú trái phép tại Việt Nam thì sẽ bị xử phạt hành chính đến 25.000.000 đồng, nếu còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đến 03 năm tù.

Trong trường hợp người nào đã bị xử phạt vi phạm hành chính về trường hợp trên mà còn vi phạm thì có thể sẽ bị xử lý hình sự về tội vi phạm quy định về xuất cảnh, nhập cảnh; tội ở lại Việt Nam trái phép theo Điều 347 Bộ luật hình sự 2015. Cụ thể: Người nào xuất cảnh, nhập cảnh trái phép hoặc ở lại Việt Nam trái phép, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm", luật sư Cường nhấn mạnh.

Đối tượng mô giới, tổ chức có thể lĩnh 15 năm tù

Cũng theo luật sư Cường, trường hợp vi phạm quy định về khai báo cư trú, tạm trú của người nước ngoài tại Việt Nam có thể bị xử phạt đến 2.000.000 đồng đối với cơ sở lưu trú.

Theo quy định tại điều 32 Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014 thì người nước ngoài có thể được tạm trú tại nhà riêng hoặc các cơ sở lưu trú khác trên lãnh thổ Việt Nam. Việc khai báo tạm trú đối với người nước ngoài tại Việt Nam thực hiện theo quy định tại Điều 33 Luật này. 

Theo đó, người trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động của cơ sở lưu trú có trách nhiệm ghi đầy đủ nội dung mẫu phiếu khai báo tạm trú cho người nước ngoài và chuyển đến công an xã, phường, thị trấn trong thời hạn 24 giờ kể từ khi người nước ngoài đến cơ sở lưu trú. Nếu cá nhân, tổ chức cho người nước ngoài lưu trú mà không khai báo thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 17 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình. Cụ thể hành vi: Cho người nước ngoài nghỉ qua đêm nhưng không khai báo tạm trú, không hướng dẫn người nước ngoài khai báo tạm trú theo quy định hoặc không thực hiện đúng các quy định khác của cơ quan có thẩm quyền thì có thể bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng.

Đối với người môi giới, tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt có thể lên đến 15 năm tù.

Đối tượng tổ chức cho người Trung Quốc ở lại Việt Nam trái phép đối diện với mức án nào? - Ảnh 2.

Theo Thạc sỹ, luật sư Đặng Văn Cường, người môi giới, tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt có thể lên đến 15 năm tù.

Trường hợp người nào tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép thì có thể bị xử lý về tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép quy định tại Điều 348 BLHS 2015. Mức phạt cao nhất có thể lên đến 15 năm trường hợp phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Đối với 11 người trở lên; Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên; Làm chết người. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

"Trong thời điểm dịch bệnh covid-19 như hiện nay thì người vi phạm còn có thể áp dụng các chế tài xử lý vi phạm quy định về phòng chống dịch bệnh.

Đối với những đối tượng biết mình nhiễm bệnh covid-19 nhưng cố tình nhập cảnh vào Việt Nam, cư trú trái phép hoặc thực hiện các việc hành vi đi lại, giao tiếp không tuân thủ các quy định về phòng chống dịch bệnh thì còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lây truyền bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người. Vấn đề này cơ quan chức năng sẽ phải làm rõ ngoài hành vi nhập cảnh trái phép thì các đối tượng vi phạm còn vi phạm các quy định nào khác hay không để xử lý theo quy định pháp luật.

Những hành vi vi phạm quy định về phòng chống dịch bệnh thì sẽ bị xử phạt hành chính, nếu đến mức nghiêm trọng thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Bệnh truyền nhiễm nguy hiểm là bệnh có thể lây lan trong cộng đồng cao, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và có thể đe dọa đến tính mạng của nhiều người. Bởi vậy việc phòng chống bệnh truyền nhiễm không chỉ là trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền mà là trách nhiệm của toàn thể nhân dân. Khi bùng phát bệnh dịch truyền nhiễm thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành công bố dịch bệnh và thực hiện các giải pháp để phòng chống dịch bệnh theo quy định của luật phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007", luật sư Cường nói. 

Cũng theo luật sư Cường, theo điều 8 luật phòng chống bệnh truyền nhiễm 2007, các hành vi bị nghiêm cấm là: Cố ý làm lây lan tác nhân gây bệnh truyền nhiễm; Người mắc bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm và người mang mầm bệnh truyền nhiễm làm các công việc dễ lây truyền tác nhân gây bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật; Che giấu, không khai báo hoặc khai báo không kịp thời các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật; Cố ý khai báo, thông tin sai sự thật về bệnh truyền nhiễm; Phân biệt đối xử và đưa hình ảnh, thông tin tiêu cực về người mắc bệnh truyền nhiễm; Không triển khai hoặc triển khai không kịp thời các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo quy định của Luật này; Không chấp hành các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Đối với người cố tình che giấu, không khai báo hoặc khai báo không kịp thời các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm sẽ bị xử phạt hành chính thậm chí là xử lý hình sự.

Các hành vi vi phạm quy định về phòng chống bệnh dịch truyền nhiễm ở mức độ chưa đến mức nguy hiểm cho xã hội thì sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định 176/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế.

Trong trường hợp người nhập cảnh trái phép biết rõ mình đang nhiễm bệnh truyền nhiễm covid-19 nhưng cố tình không chấp hành quy định về phòng chống dịch bệnh, không thực hiện các giải pháp phòng ngừa, không thực hiện cách ly y tế cố ý tiếp xúc với cộng đồng, bỏ mặc hậu quả bệnh dịch có thể lây lan xảy ra dẫn đến hậu quả bệnh dịch lây lan thì người vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm lây bệnh nguy hiểm truyền nhiễm cho người theo quy định tại điều 240 Bộ luật hình sự năm 2015, cụ thể tội danh và hình phạt được quy định như sau:

"Điều 240. Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

b) Đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người;

c) Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế;

b) Làm chết người.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 12 năm:

a) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;

b) Làm chết 02 người trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm".

Theo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với những hành vi vi phạm pháp luật phổ biến, có đủ yếu tố cấu thành tội phạm trong phòng chống dịch bệnh thì người đã được thông báo mắc bệnh, người nghi ngờ mắc bệnh hoặc trở về từ vùng có dịch bệnh COVID-19 đã được thông báo cách ly thực hiện một trong các hành vi: trốn khỏi nơi cách ly, không tuân thủ quy định về cách ly, từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly, không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối gây lây truyền dịch bệnh COVID-19 cho người khác bị coi là trường hợp thực hiện hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người quy định tại điểm c khoản 1 điều 240 Bộ luật Hình sự và bị xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người. Như vậy đối với trường hợp làm lây lan dịch bệnh hình phạt tù cao nhất có thể là 12 năm tù giam.

Thành Nam