Không biết tự bao giờ người dân quê đã biết tận dụng măng tre mọc hoang trong các vườn tạp để nấu canh, đặc biệt là măng trái mùa. Có hai thứ dùng để hầm măng tre thì ai khó tính đến đâu cũng không thể chế được đó là rắn ri tượng (ri voi) và giò, móng heo.
"Cây tre nhặt mắt, gió quặt ngọn tre oằn/ Ăn tô canh măng đắng nghe tiếng cười gằn em thối lui".
Lời câu ca dao dường như ẩn chứa nhiều nỗi niềm uẩn khuất của người trong cuộc tình dang dỡ. Thú vị hơn, nó lại được mượn hình hình ảnh vị đắng đặc trưng của tô canh nấu măng tre để so sánh.
Tre có nhiều loại tre gai, tre mỡ, tre Mạnh Tông, … Trong số đó thì măng tre Mạnh Tông ngoài chuyện ngon khó có loại măng nào sánh bằng, nó còn gắn liền với câu chuyện đầy cảm động về lòng hiếu thảo. Chuyện rằng, Ngô Mạnh Tông mồ côi cha, chỉ còn mẹ già. Mẹ bệnh nặng, thèm tô canh măng. Trời khô tháng hạn, đất đai nứt nẻ măng tre chưa mọc. Mạnh Tông vào rừng ôm bụi tre mà khóc. Nước mắt rơi xuống làm cho đất nứt ra, chồi măng tre mọc lên, da măng lốm đốm những chấm nước mắt của người. Mạnh Tông mừng rỡ cắt măng về nấu canh dâng mẹ. Mẹ ăn canh măng mà khỏi bệnh. Từ đấy thứ măng tre trái mùa, ăn nên thuốc, được gọi măng Mạnh Tông.
Người già và người gầy yếu, nếu thường xuyên ăn canh măng hầm móng, giò heo sẽ cải thiện được chức năng tích nước kém của các tế bào thúc đẩy quá trình tạo hồng cầu cho máu. Dân gian thì lại ngâm nga rằng:
"Canh măng nấu với móng heo/ Con trai ăn phải theo mèo sạch trơn"