Tâm lý 'xù nợ' trỗi dậy: Hệ quả của khoảng trống pháp lý cần sớm lấp đầy

Huyền Anh
21/04/2025 16:16 GMT +7
TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam cho rằng, việc hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu không chỉ là yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn, mà còn là điều kiện tiên quyết để giải phóng nguồn lực lớn đang bị "giam giữ" trong hệ thống ngân hàng.

Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, được Quốc hội sau 6 năm triển khai đã cho thấy vai trò tạo lập cơ chế pháp lý đặc thù, giúp các tổ chức tín dụng đẩy nhanh xử lý nợ xấu, nhiều chỉ số tích cực đã được ghi nhận, các ngân hàng xử lý được nợ xấu nhiều hơn, các hình thức xử lý tài sản bảo đảm được đẩy mạnh... Qua đó, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng ổn định, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, kể từ ngày 1/1/2024, Nghị quyết 42 đã hết hiệu lực thi hành, trong khi nhiều quy định cốt lõi chưa được luật hóa trong Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2024. Khoảng trống pháp lý này đang gây nhiều trở ngại trong xử lý nợ xấu, làm gián đoạn dòng chảy tín dụng và ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn của người dân, doanh nghiệp.

Thủ tướng đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước sửa Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, luật hóa một số quy định tại Nghị quyết 42. Dự kiến, dự thảo Luật này sẽ được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trong Phiên họp thứ 44 đang diễn ra, trước khi trình Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp vào tháng 5 tới đây.

Tại tọa đàm Tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu” do báo Đại biểu Nhân dân tổ chức ngày 21/4, ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho biết, trong năm 2024, tỷ lệ khách hàng chủ động trả nợ cho ngân hàng đối với khoản nợ xấu chỉ đạt 36%, phần còn lại là nợ được bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) hoặc thực hiện thi hành án thông qua việc bán tài sản bảo đảm.

"Chúng ta đều có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc bảo vệ cho cái sai. Người vay có nghĩa vụ trả nợ đúng cam kết, thay vì vay xong rồi cố tình chây ì, trốn tránh trách nhiệm", ông Nguyễn Quốc Hùng khẳng định. Đây là lý do cần sớm luật hóa các quy định tại Nghị quyết 42 nhằm tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu, đảm bảo phù hợp với thực tiễn.

TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam cũng nêu quan điểm rằng, việc hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu không chỉ là yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn, mà còn là điều kiện tiên quyết để giải phóng nguồn lực lớn đang bị "giam giữ" trong hệ thống ngân hàng.

Lấy dẫn chứng, ông Bình nêu rõ: Với tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế hiện khoảng 4 triệu tỷ đồng, nếu tỷ lệ nợ xấu vào khoảng 6 - 7% thì con số tuyệt đối lên tới hơn 1 triệu tỷ đồng - tương đương gần 40 tỷ USD. Đây là nguồn vốn không được sử dụng hiệu quả, trở thành vốn "chết".

Thế nhưng, tác hại không chỉ dừng lại ở con số khổng lồ đó. Theo ông Bình, không chỉ nguồn vốn bị "đóng băng", mà những tài sản thế chấp đi kèm cũng không được khai thác do vướng mắc pháp lý. Tức là đang chịu tác động kép, vừa mất đi nguồn tín dụng, vừa để tài sản "chết".

Tỷ lệ nợ xấu 6% là con số rất cao nếu so với mức trung bình 2 - 3% của các nền kinh tế đang phát triển. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng tài sản (AQ) của hệ thống ngân hàng và tạo áp lực lớn trong việc trích lập dự phòng rủi ro - yếu tố đẩy lãi suất cho vay tăng cao.

TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam.

Từ góc độ pháp lý, ông Bình cho rằng, ở nhiều quốc gia, quyền thu giữ tài sản thế chấp là quyền đương nhiên, được pháp luật bảo vệ. Việc giao kết hợp đồng tín dụng đã bao hàm sự đồng thuận dân sự và nếu bên vay vi phạm, quyền thu giữ sẽ được thi hành nhanh chóng thông qua hệ thống tư pháp hiệu quả. Tuy nhiên, ở Việt Nam, điều này vẫn chưa được thể chế hóa đầy đủ.

Do đó, cần luật hóa rõ ràng quyền thu giữ tài sản để bảo vệ lợi ích hợp pháp của ngân hàng, cổ đông, người gửi tiền - những người thực chất đang góp vốn cho nền kinh tế thông qua hệ thống tín dụng. Việc các thủ tục như kê biên, thu giữ tài sản, quy trình xử lý rút gọn cần được quy định cụ thể, có giá trị pháp lý đủ mạnh để tránh tình trạng thỏa thuận mang tính hình thức.

Tâm lý chây ỳ, không chịu trả nợ có xu hướng trỗi dậy trở lại. Điều này không chỉ gây rủi ro cho ngân hàng mà còn làm xấu đi văn hóa kinh doanh, gây ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa tổ chức tín dụng với doanh nghiệp và người gửi tiền. Vì vậy, các doanh nghiệp cần nhận thức rõ rằng khi vay vốn là đang sử dụng tiền của người gửi tiết kiệm, chứ không phải "tiền của ông chủ ngân hàng"; họ phải có trách nhiệm trả nợ đúng hạn.

TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam.

Dưới góc nhìn vĩ mô, bà Trần Hồng Nguyên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội khẳng định, mục tiêu cuối cùng của xử lý nợ xấu không phải vì lợi ích của ngân hàng mà là trách nhiệm bảo đảm quyền và lợi ích các bên, trong đó có bên thứ ba là người gửi tiền.

Đồng tình, TS. Lê Duy Bình cũng khẳng định, dù theo hướng sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng hay ban hành một đạo luật riêng, thì mục tiêu cuối cùng vẫn là tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ, rõ ràng, hiệu quả, bảo vệ lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan. Bởi điều này, không chỉ phục vụ mục tiêu xử lý nợ xấu trước mắt mà còn thiết lập một trật tự kỷ cương bền vững trong quan hệ tín dụng - yếu tố sống còn của nền kinh tế hiện đại.

Đặt nhiều kỳ vọng dự thảo sớm được thông qua song bà Nguyễn Thị Phương, Giám đốc ban pháp chế, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đề nghị ban soạn thảo xem xét bổ sung một số trường hợp được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm, cụ thể, tổ chức tín dụng được chuyển giao bắt buộc được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc trong trường hợp các bên đã thực hiện mua bán nợ; tổ chức có chức năng mua bán, xử lý nợ theo quy định của pháp luật (không bao gồm tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ có chức năng mua, bán, xử lý nợ) được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng bán nợ...