Vì sao doanh nghiệp mía đường Việt “thua” trên “sân nhà”?
Doanh nghiệp đầu tư như “nước đổ lá khoai”
Sau khi được cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp đường có tiềm lực lớn trong nước đã mạnh dạn đầu tư hàng trăm tỷ đồng nâng cấp máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại để phát triển nhà máy.
Những doanh nghiệp này được giới chuyên môn đánh giá là có năng lực, có khả năng cạnh tranh với hệ thống trang thiết bị hiện đại, liên tục cập nhật công nghệ giúp đẩy cao năng suất, chất lượng sản phẩm đường.
Tiêu biểu phải kể đến Công ty Cổ phần (CTCP) Mía đường Sơn La đã đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng để phát triển dây chuyền theo công nghệ mới và lắp đặt thêm thiết bị sản xuất đường tinh luyện cao cấp RE.
Kho hàng của CTCP Mía đường Sơn La hiện đang phải trữ tồn kho gần 40.000 tấn đường.
Việc CTCP Mía đường Sơn La áp dụng dây chuyền công nghệ hiện đại đẩy công suất hoạt động từ 3.000 lên 5.000 tấn mía cây/ngày giúp đảm bảo việc “bao tiêu” nguồn mía nguyên liệu cho bà con nông dân.
Ngoài ra, CTCP Mía đường Tuy Hòa cũng đã chi đến 700 tỷ đồng đầu tư hệ thống sản xuất hiện đại gồm máy ép thế hệ mới, công nghệ bốc hơi màng rơi… nâng công suất từ 1.200 tấn mía/ngày lên 3.200 tấn mía/ngày.
Các doanh nghiệp khác như CTCP Mía đường Cần Thơ (Casuco) cũng đầu tư vào công nghệ trị giá trên 300 tỷ đồng để nâng cấp nhà máy. CTCP Mía đường Trà Vinh đầu tư thiết bị khoảng 200 tỷ đồng nâng công suất xử lý lên 3.200 tấn mía/ngày để ra được đường FRR chất lượng cao. Công ty KCP còn đầu tư hai nhà máy hiện đại với số vốn hơn 130 triệu USD...
Nhà máy sản xuất có sự đầu tư lớn, hệ thống được đánh giá hiện đại, đủ sức cạnh tranh nhưng nghịch lý xảy đến khi toàn ngành mía đường đang “thua” ngay trên “sân nhà” của mình, DN đứng trước nguy cơ phá sản, vùng trồng mía bị thu hẹp.
Theo thông tin từ Hiệp hội Mía đường Việt Nam (VSSA), hiện nay, cả nước tồn kho khoảng 650.000 tấn đường. Tại CTCP Mía đường Sơn La tồn kho gần 40.000 tấn đường với giá trị khoảng 500 tỷ đồng, CTCP Mía đường Tuy Hòa tồn 15.000 tấn đường tương đương hơn 170 tỷ đồng...
Nguyên nhân của tình trạng trên thường được giải thích là do đường nhập lậu ồ ạt tràn vào Việt Nam với số lượng 500.000 - 700.000 tấn/năm. Ngoài ra, một số lượng lớn đường nhập dùng chiêu "tạm nhập" không "tái xuất" khiến mặt hàng đường sản xuất trong nước không thể cạnh tranh, tồn kho ngày một lớn.
Việc đối phó với đường nhập lậu đang là một bài toán khó giải, đến đầu 2020 khi Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN (Atiga) có hiệu lực sẽ tiếp tục trở thành gánh nặng lớn cho các DN.
Cụ thể, từ 1/1/2020, hạn ngạch nhập khẩu mía đường từ ASEAN chính thức được xóa bỏ và mức thuế suất nhập khẩu đường vào Việt Nam sẽ là 0%. Theo ông Subbaiah, Tổng giám đốc Công ty KCP Việt Nam cho biết, khi Hiệp định Atiga có hiệu lực thì lượng đường nhập khẩu chính ngạch vào thị trường Việt Nam càng lớn và giá đường sẽ phải giảm xuống 15-20%.
Khi giá đường xuống thấp, giá mía nguyên liệu đầu vào giảm, người nông dân không có lãi sẽ canh tác loại cây khác. Diện tích trồng bị thu hẹp, nguồn nguyên liệu đầu vào giảm sút, trong khi cơ chế hỗ trợ của nhà nước không rõ ràng khiến nhiều DN hiện đang “đứng ngồi không yên”.
"Mặc dù đến đầu năm sau Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN (Atiga) có hiệu lực nhưng đến nay chúng tôi cũng chưa rõ chính sách hội nhập cụ thể cho ngành mía đường của Chính phủ ra sao. Hiện tại đường lậu đã tràn vào Việt Nam với một số lượng rất lớn...", ông Subbaiah nói.
Thất bại do DN không có năng lực cạnh tranh hay thiếu cơ chế?
Lý do giải thích cho sự “bết bát” của ngành mía đường những năm trở lại đây thường là vì đường lậu, cơ sở nguyên liệu manh mún, sản xuất, công nghệ chế biến lạc hậu. Nhưng phải chăng nếu có những cơ chế bảo hộ tốt hơn, ngành mía đường Việt Nam đã không lâm vào tình trạng khó khăn như hiện nay?
Ông Nguyễn Văn Lộc, nguyên Tổng Giám đốc Công ty Đường Biên Hòa cho biết, hiện nay, nhiều nước lớn trong ngành mía đều có chính sách bảo hộ ngành đường bằng các chính sách trợ giá.
“80% giá thành sản xuất đường là từ mía, trong đó, số tiền doanh nghiệp các nước bỏ ra để mua nguyên liệu được chính phủ hỗ trợ một phần nên dù bán đường với giá rẻ, doanh nghiệp vẫn lãi.
Ngược lại, doanh nghiệp Việt Nam phải mua mía hoàn toàn bằng tiền của mình nên chi phí bỏ ra để sản xuất mía nhiều hơn. Khi giá mía thế giới thấp, doanh nghiệp phải chịu lỗ.” ông Lộc nói.
Lối thoát nào cho DN, người nông dân trồng mía Việt Nam?
Cụ thể, tại Thái Lan, chính phủ khuyến khích nông dân trồng mía bằng cách duy trì chính sách đường bảo hộ cao với sự can thiệp đáng kể trong hầu hết các hoạt động của ngành đường.
Chính phủ Thái Lan quy định giá bán đường và giá mua mía, nếu giá đường cuối cùng cao hơn dự đoán, các nhà máy phải trả một phần của khoản chênh lệch cho người trồng mía.
Trong trường hợp giá thấp hơn dự đoán, người trồng mía không phải trả lại thâm hụt, các nhà máy được bù đắp bởi Quỹ Mía đường do nhà nước điều hành.
Mới đây, Thái Lan đã bãi bỏ việc thu 5 Baht từ mức giá nhà máy đóng góp vào Quỹ Mía đường quốc gia. Ngoài ra, tỷ lệ chia sẻ lợi nhuận 70 - 30 giữa nông dân và người sản xuất vẫn được duy trì.
Văn phòng mía đường cũng thông qua ngân sách hỗ trợ nông dân lên đến 50 Baht/tấn, tối đa 5.000 Baht/người. Ngoài ra, Chính phủ cũng khuyến khích sử dụng đường trong kế hoạch kinh tế sinh học, cụ thể phân bổ 500.000 tấn đường để sản xuất xăng ethanol thay thế cho nguyên liệu sắn.
Bên cạnh đó, Thái Lan không cấp phép nhập khẩu thường niên, DN nào muốn nhập khẩu đường vào Thái Lan thì phải trực tiếp đi xin giấy phép song thực tế việc này hiếm khi xảy ra.
Tại Việt Nam, theo Quyết định số 68, ngân sách nhà nước hỗ trợ lãi suất vốn vay thương mại đối với các khoản vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để mua máy móc, phương tiện phục vụ sản xuất nông nghiệp, mức vay tối đa lên đến 100% giá trị trang thiết bị.
Về lý thuyết, với chính sách trên, nông dân trồng mía có thể đầu tư mua mới thiết bị cơ giới phục vụ việc làm đất, chăm sóc, tưới tiêu, thu hoạch hoàn toàn chỉ bằng nguồn vốn vay, được miễn lãi suất trong hai năm đầu.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc tiếp cận nguồn vốn thông qua chính sách này rất khó khăn do vướng nhiều thủ tục, quy định về danh mục chủng loại máy, cách xác định đối tượng vay.
Để nông dân có vốn đầu tư, các doanh nghiệp lớn phải tự đứng ra cho vay hoặc liên kết với các ngân hàng cung cấp các gói tín dụng nông nghiệp với lãi suất ưu đãi. Việc các DN phải “gánh” đủ mọi khâu trong chuỗi sản xuất cung ứng khiến nhiều đơn vị dường như đã kiệt sức, ngành đường Việt Nam đang trong gian đoạn khó khăn hơn bao giờ hết.