Giá vàng hôm nay 6/12: Giá vàng giảm mạnh, dự báo xu hướng có thay đổi?
Giá vàng hôm nay 6/12: Vàng thế giới giảm mạnh sau cú thiết lập lịch sử
Giá vàng hôm nay trên thế giới đã trượt xuống khoảng 2.020 USD/ounce sau khi đạt mức cao nhất mọi thời đại trong phiên trước đó, sau khi các nhà đầu tư tiếp nhận dữ liệu kinh tế mới từ Mỹ. Cơ hội việc làm của nước này giảm nhiều hơn dự đoán và đạt mức thấp nhất kể từ tháng 3/2021, báo hiệu sự hạ nhiệt trên thị trường lao động. Đồng thời, PMI Dịch vụ ISM đã vượt dự báo và tiếp tục cho thấy lĩnh vực dịch vụ có khả năng phục hồi tốt.
Ở những quốc gia khác, nhà hoạch định chính sách ECB Schnabel đã áp dụng lập trường chính sách tiền tệ nhẹ nhàng hơn và Moody đã điều chỉnh triển vọng của Trung Quốc từ "ổn định" thành "tiêu cực".
Các thị trường hiện đang chờ đợi báo cáo việc làm hàng tháng của Hoa Kỳ vào thứ Sáu, báo cáo này có thể cung cấp manh mối về xu hướng lãi suất trong tương lai.
Ghi nhận lúc 7h sáng nay 6/12, giá vàng thế giới đang dao động quanh mốc 2.019 USD/ounce.
Theo Kitco, thị trường đã đi quá xa so với kỳ vọng về lãi suất, chính vì vậy, điều này sẽ gia tăng áp lực bán cho các nhà đầu tư vàng. Mặc dù việc cắt giảm lãi suất cuối cùng sẽ đẩy giá vàng lên cao hơn, nhưng việc nới lỏng tiềm năng trong tháng 3 có thể vẫn là quá sớm. Một số nhà phân tích cũng lưu ý rằng thị trường vàng không phải là cơ quan đánh giá tốt về khả năng xoay trục trong chính sách tiền tệ.
"Vàng đã được hưởng lợi từ việc định giá thị trường khi cắt giảm lãi suất và căng thẳng địa chính trị gia tăng thúc đẩy nhu cầu trú ẩn an toàn. Tuy nhiên, giá có thể đã đi vào vùng quá mua và vàng đã được biết là sẽ định giá sớm theo kỳ vọng về chính sách tiền tệ trong hai năm qua. Động thái tiếp theo của Fed là cắt giảm lãi suất, chúng tôi không kỳ vọng nó sẽ thành hiện thực ngay lập tức", Suki Cooper, nhà phân tích kim loại quý tại Ngân hàng Standard Chartered, cho biết trong một lưu ý gần đây và cho biết thêm rằng hành động giá vàng trong thời gian tới chủ yếu được thúc đẩy bởi sức khỏe của thị trường lao động Mỹ. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng có thể buộc Cục Dự trữ Liên bang phải điều chỉnh theo kỳ vọng của thị trường.
Theo CME FedWatch Tool, các thị trường nhận thấy hơn 60% khả năng lãi suất sẽ tăng vào tháng 3 và đã định giá đầy đủ cho việc cắt giảm lãi suất vào tháng 5.
Carsten Fritsch, nhà phân tích kim loại quý tại Commerzbank, cho biết ông không mong đợi Cục Dự trữ Liên bang hay Ngân hàng Trung ương Châu Âu sẽ cắt giảm lãi suất trong nửa đầu năm mới. "Một đợt trượt giá tiếp theo có thể xảy ra nếu kỳ vọng về lãi suất sớm phải được thu hẹp lại. Chúng tôi chỉ kỳ vọng giá sẽ tăng lâu dài lên 2.100 USD/ounce vào nửa cuối năm 2024 khi Fed bắt đầu hạ lãi suất".
Một số nhà phân tích cho rằng khi các nhà đầu tư chốt lời từ đợt phục hồi đột phá của giá vàng, mức quan trọng cần theo dõi tiếp theo sẽ là mức 2.000 USD/ounce. "Mặc dù các yếu tố cơ bản vẫn nghiêng về phía tăng, nhưng các chỉ số kỹ thuật lại cho thấy xu hướng giảm trên biểu đồ hàng ngày. Kim loại quý có thể biến động nhiều hơn trong tuần này do căng thẳng địa chính trị và dữ liệu kinh tế quan trọng của Mỹ, bao gồm cả báo cáo NFP. Trong khi đó, điều tiêu cực là Lukman Otunuga, nhà phân tích thị trường cấp cao tại FXTM cho biết, động lực có thể kéo giá về mức tâm lý 2.000 USD trong thời gian tới.
Trong khi thị trường vàng dự kiến sẽ có một số điểm yếu trong thời gian tới, Nicky Shiels, người đứng đầu chiến lược kim loại tại MKS PAMP, cho biết vẫn còn nhiều tiềm năng cho vàng cho đến năm 2024: “Chúng tôi vẫn duy trì quan điểm tích cực về Vàng và những kỳ vọng tăng giá của chúng tôi đã được đưa ra vào Quý 1 năm 2024. Quá trình khử đô la hóa đang diễn ra và nỗi lo sợ tiềm ẩn về một cuộc suy thoái sắp tới, trong đó xu hướng giảm phát có thể cho phép Fed tiếp tục cắt giảm lãi suất".
Theo nhiều nhà phân tích, mảnh ghép còn thiếu trên thị trường vàng vẫn là nhu cầu đầu tư của phương Tây. Ngay cả khi giá vàng đã tăng lên mức cao mới mọi thời đại, việc đầu tư vào các sản phẩm giao dịch trao đổi được hỗ trợ bằng vàng vẫn khá ảm đạm.
Trong hội thảo trực tuyến hôm thứ Ba, Michael Widmer, chiến lược gia kim loại tại Bank of America, nói rằng mặc dù ông lạc quan về giá vàng cho đến năm 2024, nhưng thị trường sẽ cần phải chứng kiến một đợt cắt giảm lãi suất thực tế trước khi các nhà đầu tư nhảy vào thị trường: “Thị trường vàng sẽ cần có không gian đầu tư rộng hơn để duy trì mức giá cao hơn. Thị trường đang chờ đợi các động thái từ Cục Dự trữ Liên bang trước khi họ đầu tư vào vàng.”
Giá vàng hôm nay 6/12: Vàng trong nước tiếp tục tăng
Sáng nay, trên các sàn giao dịch, giá vàng SJC trong nước vẫn được các doanh nghiệp điều chỉnh tăng từ 30 đến 200 nghìn đồng/lượng.
SJC niêm yết giá vàng mua vào ở Hà Nội và Đà Nẵng là 73,20 triệu đồng/lượng; bán ra là 74,40 triệu đồng/lượng, tăng 500.000 đồng/lượng ở cả chiều mua vào và bán ra so với mở cửa phiên giao dịch hôm qua. Chênh lệch giá mua - bán vàng SJC hiện ở mức 1,2 triệu đồng/lượng.
Cùng thời điểm, Tập đoàn DOJI niêm yết giá vàng SJC mua vào - bán ra ở mức 72,80– 74,10 triệu đồng/lượng. So với đầu giờ sáng 5/12, giá vàng DOJI tăng 100.000 đồng/lượng ở chiều mua vào và giảm 100.000 đồng/lượng ở chiều bán ra, khoảng chênh lệch giữa giá mua với giá bán thu hẹp về mức 1,3 triệu đồng/lượng.
Vàng SJC tại PNJ được niêm yết mua vào 73,2 triệu đồng/lượng, bán ra 74,3 triệu đồng/lượng, chênh lệch giữa giá mua vào và bán ra là 1,1 triệu đồng/lượng.
Tại Bảo Tín Minh Châu, giá vàng SJC được niêm yết thấp hơn cả ở 2 chiều: mua vào 72,5 triệu và bán ra 73,7 triệu.
Phú Quý SJC đang thu mua vàng miếng với giá 72,8 triệu đồng/lượng và bán ra mức 74,1 triệu đồng/lượng, giảm 150.000 đồng ở chiều mua và 100.000 đồng ở chiều bán so với rạng sáng qua.
Khu vực | Hệ thống | Mua vào | Bán ra |
---|---|---|---|
TP. Hồ Chí Minh | SJC | 73.200 | 74.400 |
PNJ | 73.200 | 74.300 | |
Mi Hồng | 72.800 | 73.800 | |
Hà Nội | SJC | 73.200 | 74.420 |
PNJ | 73.200 | 74.300 | |
Bảo Tín Minh Châu | 72.500 | 73.700 | |
Phú Quý | 72.800 | 73.950 | |
Đà Nẵng | SJC | 73.200 | 74.420 |
PNJ | 73.200 | 74.300 | |
Nha Trang | SJC | 73.200 | 74.420 |
Cà Mau | SJC | 73.200 | 74.420 |
Huế | SJC | 73.170 | 74.420 |
Biên Hòa | SJC | 73.200 | 74.400 |
Miền Tây | SJC | 73.200 | 74.400 |
Quảng Ngãi | SJC | 73.200 | 74.400 |
Bạc Liêu | SJC | 73.200 | 74.420 |
Hạ Long | SJC | 73.180 | 74.420 |
Miền Tây | PNJ | 73.300 | 74.400 |
Bến Tre | Mi Hồng | 72.800 | 73.800 |
Tiền Giang | Mi Hồng | 72.800 | 73.800 |
Cập nhật lúc 07:15:21 06/12/2023 https://giavang.org/ |