Hạn chế room ngoại sẽ "trói chân" Fintech?

20/08/2019 11:09 GMT+7
Chuyên gia cho rằng, việc hạn chế đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực Fintech đặc biệt gây quan ngại do hiện nay sự phát triển của các doanh nghiệp Fintech vẫn phần lớn dựa vào đầu tư nước ngoài. Chính phủ đã cho phép Ngân hàng 100% vốn nước ngoài (chi nhánh) hoạt động và xem xét nới room cho các ngân hàng thương mại. Vì vậy, không thể lấy hạn mức đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng hiện tại để làm tiền lệ cho Fintech.

Toàn cảnh tọa đàm

Sáng 20/8/2019, Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam và chuyên trang ICTnews của Báo điện VietNamNet tổ chức buổi tọa đàm 'Chính sách quản lý Fintech'.

Với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ di động, những năm gần đây Fintech đã có sự phát triển vượt bậc, làm thay đổi diện mạo hệ thống tài chính – ngân hàng, đem lại thuận tiện cho các giao dịch kinh doanh – tiêu dùng.

Hiện nay, NHNN đã cấp phép cho hơn 30 doanh nghiệp được hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, có 27 tổ chức trung gian thanh toán cung ứng dịch vụ Ví điện tử trên thị trường. Có 76 tổ chức đã triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet, 44 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán điện thoại di động.

Giá trị giao dịch thông qua kênh điện thoại di động đã lên tới 1,7 triệu tỷ đồng vào cuối tháng 6/2019, tăng tới 161% so với cùng kỳ năm 2018.

Với số lượng 27 ví điện tử, theo đánh giá của ông Varun Mital, Phó Chủ tịch Hiệp hội Fintech Singapore, đồng thời là Trưởng Bộ phận tư vấn dịch vụ Fintech tại các thị trường mới của Ernst & Young Singapore, con số này chỉ cao hơn so với Singapore (26 ví), nhưng thấp hơn nhiều so với Indonesia (35 ví), Phillipines (43 ví) và Malaysia (44 ví).

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển tại Việt Nam, những cơ chế chính sách hiện nay tuy đã cởi mở nhưng vẫn còn nhiều bất cập cần được điểu chỉnh và bổ sung để thúc đẩy các Fintech phát triển, đem lại nhiều dịch vụ thanh toán tiện lợi cho người dùng.

Trên thực tế, khi Fintech giúp các hoạt động, giao dịch tài chính, tiền tệ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, thì cũng đồng nghĩa với việc Fintech có khả năng bị lợi dụng để các hoạt động, giao dịch bất hợp pháp cũng thuận tiện, nhanh chóng hơn. Vì vậy, các chính sách, quy định điều chỉnh Fintech thường tập trung tìm cách ngăn chặn việc Fintech bị sử dụng cho các hoạt động bất hợp pháp.

Thế nhưng, nếu chính sách, quy định đặt ra quá nhiều hạn chế, ràng buộc để kiểm soát hoạt động bất hợp pháp hay đặt ra hạn mức tín dụng quá thấp so với xu hướng tiêu dùng của người dùng sẽ ảnh hưởng trở lại đến sự thuận tiện của số đông người dùng.

Vì vậy, điểm cốt yếu trong xây dựng chính sách cho Fintech là tìm ra sự cân bằng giữa kiểm soát rủi ro trong khi đảm bảo quyền lợi cho đa số người dùng. Đây là nhiệm vụ không dễ dàng của các cơ quan quản lý chuyên ngành và Chính phủ để thúc đẩy các Fintech phát triển hướng đến một xã hội thanh toán không dùng tiền mặt.

Hạn chế room ngoại sẽ "bó chân" Fintech?

Tại buổi tọa đàm, các chuyên gia đã phân tích, chia sẻ kinh nghiệm và đưa ra nhiều khuyến nghị về định hướng chính sách cho Fintech.

Một mặt, các việc tăng cường quản lý là cần thiết nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, nâng cao tính bảo mật, an toàn cho các giao dịch tài chính, bảo vệ quyền lợi cho người dùng.

Mặt khác, việc xây dựng chính sách cũng không nên vì một số trường hợp cá biệt như đánh bạc online … mà áp đặt những hạn chế, ràng buộc gây bất tiện cho số đông người dùng, làm mất đi ý nghĩa tích cực của fintech đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế số và chủ trương phổ cập thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ.

Đồng thời, Fintech không có trách nhiệm và khả năng ngăn chặn vi phạm. Cần khuyến khích việc Fintech có thể làm tốt nhất là phát hiện, theo dõi và cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý.

Ngoài ra, một số đề xuất đáng chú ý như sử dụng các cơ sở dữ liệu của cơ quan quản lý để thực hiện xác thực người dùng các dịch vụ Fintech, cũng như cho phép người dùng đăng ký các hạn mức giao dịch “mềm” với đơn vị cung cấp dịch vụ, có thể điều chỉnh tuỳ theo nhu cầu sử dụng cũng như đánh giá an toàn của mỗi người.

Ông Varun Mittal

Riêng đối với giới hạn đầu tư nước ngoài ở mức 30% hoặc 49% vào lĩnh vực Fintech, ông Varun Mittal, Phó Chủ tịch Hiệp hội Fintech Singapore, đồng thời là Trưởng Bộ phận tư vấn dịch vụ Fintech tại các thị trường mới của Ernst & Young Singapore cho rằng, nếu hạn chế đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực Fintech cũng đặc biệt gây quan ngại, do hiện nay sự phát triển của các doanh nghiệp Fintech vẫn phần lớn dựa vào đầu tư nước ngoài.

Các start-up trong lĩnh vực này đều cần có sự đầu tư về công nghệ, thị trường và nhân sự, trong khi đó các nguồn lực trong nước còn chưa đáp ứng được. Ngoài ra, đầu tư nước ngoài còn cho phép doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận các thành quả công nghệ mới, đặc biệt trong các lĩnh vực dữ liệu lớn (big data) hay trí tuệ nhân tạo (AI)... vốn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để xây dựng các sản phẩm, giải pháp cho Fintech.

Ông Phùng Anh Tuấn

Đồng quan điểm, ông Phùng Anh Tuấn, Phó chủ tịch - Tổng thư ký Hiệp hội các nhà Đầu tư Tài chính (VAFI), Giám đốc Công ty Luật VCI Legal,  cũng lưu ý: “Theo Hiệp định thương mại thế hệ mới như CPTPP hay EU – VN FTA, Việt Nam đều đưa ra cam kết mở cửa lĩnh vực tài chính – ngân hàng với phạm vi cam kết rất rộng, bao gồm tất cả các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, và xử lý dữ liệu tài chính và phần mềm liên quan bởi các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính khác; tư vấn, trung gian, và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác.

Vì vậy, các cơ quan xây dựng chính sách cần lưu ý để tránh vi phạm cam kết quốc tế của Việt Nam, dẫn đến hệ lụy không mong muốn như các vụ kiện đầu tư tại nước ngoài thời gian gần đây”.

Hiệp hội VAFI cho rằng, Chính phủ đã cho phép Ngân hàng 100% vốn nước ngoài (chi nhánh) hoạt động và xem xét nới room cho các ngân hàng thương mại. Vì vậy, không thể lấy hạn mức đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng hiện tại (30%) để làm tiền lệ cho Fintech.

Được biết, việc NHNN muốn hạn chế đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực trung gian thanh toán là nhằm ổn định và an toàn trong chính sách tiền tệ của quốc gia, tránh sự thao túng của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như để đảm bảo chủ quyền quốc gia trong hoạt động ngân hàng tài chính, tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong nước nắm bắt cơ hội.

Lê Thúy
Tags:
Cùng chuyên mục