Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết giải thích luật về vi phạm bí mật kinh doanh
Sáng 23/11, tiếp tục chương trình phiên họp thứ 5, với 100% thành viên tán thành, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết giải thích Khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015.
Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị: Quy định tại khoản 1 Điều 289 của BLHS năm 2015, hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác lấy cắp dữ liệu được hiểu là bao gồm cả hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác chiếm đoạt dữ liệu có chứa bí mật kinh doanh, kể cả đọc, nghe, ghi chép, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình dữ liệu có chứa bí mật kinh doanh.
Chính phủ, TAND tối cao, Viện KSND tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm thi hành nghị quyết này.
Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 14/1/2022 và được áp dụng cùng với BLHS sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14.
Trước khi nghị quyết được thông qua, báo cáo giải trình làm rõ thêm một số vấn đề, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thi Nga cho hay nội dung nghị quyết giải thích bao gồm cả dữ liệu có chứa bí mật kinh doanh. Vì vậy, nghị quyết đã đáp ứng được yêu cầu xử lý hình sự hành vi vi phạm bí mật kinh doanh của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Đồng thời, phương án giải thích như trên cũng đáp ứng yêu cầu về các hành vi tại khoản 2 Điều 18.78 của Hiệp định.
Bên cạnh đó, trong cấu thành cơ bản của tội "Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác" (khoản 1 Điều 289) bao gồm các hành vi kế tiếp nhau.
Để có thể lấy cắp được dữ liệu của người khác thì trước hết, người phạm tội phải xâm nhập được (còn được cụ thể hóa bằng các hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác trong cấu thành cơ bản tại khoản 1 Điều 289) vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của người khác, sau đó mới thực hiện các hành vi tiếp theo gồm chiếm quyền điều khiển, hoặc can thiệp vào chức năng hoạt động của phương tiện điện tử, hoặc lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm giả dữ liệu, hoặc sử dụng trái phép các dịch vụ.
Do đó, Ủy ban Tư pháp cho rằng, việc lựa chọn hành vi "Cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác lấy cắp dữ liệu" để giải thích là phù hợp vì đây là một trong những hành vi đã được quy định khoản 1 Điều 289 BLHS và là hành vi phù hợp nhất với yêu cầu của Hiệp định. Ngoài ra, qua rà soát BLHS cho thấy, không có điều luật tương ứng nào khác phù hợp hơn để giải thích.