Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Tương truyền, khi đi sứ nhà Minh về tới Thăng Long, để động viên Thám hoa Quách Hữu Nghiêm (quê làng Phúc Khê Tiền, huyện Thanh Lan, phủ Tiên Hưng, nay là làng Phúc Khê, xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vua ủy thác “Toàn quân mệnh, tráng quốc uy” nghĩa là làm tròn bổn phận bề tôi đối với vua và dùng tài trí của mình, trọng trách vua ban để làm tăng thế nước... vua Lê Hiển Tông giữ “cụ Nghiêm” ở lại kinh thành 2 tháng rồi cho phép “cụ” về thăm quê.
Về tới bến Côn Giang, theo lời dặn của vua nhà Minh “cụ” mở chiếc hòm quý ra thấy trong có 4 chữ bằng bạch kim “Côn Giang lão nhân” tự nhiên cụ không ốm mà mất, cùng lúc trời bỗng nổi phong ba nhấn chìm 9 thuyền quan...
Địa danh Thám hoa Quách Hữu Nghiêm mất là làng Thuyền Quan nay thuộc xã Thái Hà, huyện Thái thụy. Nơi đây là cửa sông Cun (Côn Giang), dân gian vẫn truyền tụng câu ca: “Trăm cửa bể phải nể cửa (Tuần) Vường, cửa Vường phải nhường cửa Cun”, khúc sông được sử cũ chép là sâu nhất Đại Việt thời bấy giờ.
Bến Cun ngay cạnh làng Phúc Khê Tiền, quê hương Tiến sĩ Quách Đình Bảo, Thám hoa Quách Hữu Nghiêm, quan Thượng thư triều Lê. Mỗi lần từ kinh thành Thăng Long về quê, hai “cụ” đều phải đi qua khúc sông sâu thẳm, sóng to, gió lớn này.
Cụ Nghiêm là con út tổ Quách Ý Trung, làng Phúc Khê Tiền, em cụ Quách Đình Bảo, Quách Đình Quý, Quách Đình Thực, “cụ” sinh ngày 3 tháng 10 năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442), triều Lê Thái Tông. Quách Hữu Nghiêm nổi tiếng thi thư và có tài ứng đối nhanh. Tuy sinh sau huynh trưởng (Quách Đình Bảo) 8 tuổi, nhưng sức học không hề kém huynh trưởng nên thành danh sớm hơn về danh vọng.
Năm Đinh Tỵ (1497) vua Lê Thánh Tông băng hà. Năm Mậu Ngọ (1498) Lê Hiến Tông lên ngôi. Năm Cảnh Thống thứ 5, ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1502), “cụ” Quách Hữu Nghiêm phụng mệnh vua đi sứ nhà Minh để đáp lễ việc vua Minh Hiến Tông tặng vua Lê Hiển Tông áo, mũ đẹp.
Đường dài Bắc quốc sứ bộ có lúc đi thuyền, có chỗ đi ngựa, gặp chỗ non cao trèo bộ, nhưng đến các dịch quán đều được đón tiếp long trọng. Khi đoàn đến Bắc Kinh thấy tơ lụa đẹp lại bán cả áo long cổn, Quách Hữu Nghiêm cho người mua cất vào trong hòm lễ vật định đem về nước tiến vua Lê.
Nào ngờ sứ bộ vừa tới sứ quán, Hoàng Thái hậu (vợ vua Minh Anh Tông, mẹ Minh Hiến Tông) cho lính lục các rương hòm lễ vật để tìm hương liệu quý. May thay Quách Hữu Nghiêm nhanh trí đã lập biểu và tờ kê gồm cả áo long cổn và các lễ vật khác.
Vua Minh Hiến Tông không hay biết chuyện này thấy làm vui khen vua Lê “hào phóng” lại khen văn phong Chánh sứ Đại Việt Quách Hữu Nghiêm tao nhã đáng xếp vào hàng nhân tài “Tam đại của Trung Hoa”.
Minh Hiến Tông mừng rỡ sai quan thái giám Trần Khoan dâng châu (báu) và tự tay ban tặng cho Chánh sứ Đại Việt Quách Hữu Nghiêm, sau còn mời lên dự yến, ban cho vóc đại hồng. Trên đường cố hương, Chánh sứ Quách Hữu Nghiêm và đoàn sứ bộ đâu biết rằng ngày 24 tháng 5 năm Giáp Tý (1504), vua Lê Hiển Tông băng hà ở Đỗ Trị.
Mùa thu năm ấy đoàn sứ bộ mới về đến kinh thành Thăng Long, lúc này con trai thứ 3 của vua Lê Hiển Tông là Túc Tôn Khâm nối ngôi. Quách Hữu Nghiêm được vua Lê thăng chức Thượng thư bộ Lại kiêm Đô ngự sử. Ngày cụ Nghiêm khuất núi là ngày “cửu trùng” mùng 9 tháng 9. Cụ ra đi đột ngột là một tổn thất vô cùng lớn với triều đình nhà Lê.
Sử gia Phan Huy Chú từng đưa ra nhận xét “Nước Việt ta có cõi đất phía Nam mà thông hiếu với Trung Hoa tuy nuôi dân dựng nước có quy mô riêng nhưng ở trong thì xưng đế mà đối ngoại thì xưng vương”.
Chính sách ngoại giao của cha ông ta ngày trước luôn thể hiện tài thao lược, mưu trí hơn người. Có thế cháu con ngày nay mới hiểu thấu được tại sao thời điểm đó cha ông ta phải nhún nhường, mềm mỏng. Trong “Lịch triều hiến chương loại chí” sử gia Phan Huy Chú có chép rằng: “...cuối cùng đánh được giặc mạnh khiến chúng phải nguội lạnh cái lòng nhòm ngó phương Nam đó há phải vì binh lực mà thôi đâu”.