FDI vào Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trong ngắn hạn do Covid-19

14/03/2020 05:41 GMT+7
Trước những tác động của dịch Covid-19, tình hình vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam trong tháng 2/2020 giảm mạnh, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt gần 6,47 tỷ USD, bằng 76,4% so với cùng kỳ năm 2019.

Mới đây, Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển nhận định sự bùng phát của dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19 sẽ khiến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu giảm 5-15% so với các dự báo được đưa ra trước đó.

UNCTAD cảnh báo tác động tiêu cực của dịch Covid-19 nhiều khả năng sẽ trở nên tồi tệ hơn.

Theo UNCTAD hồi tháng 1/2020 ước tính dòng vốn FDI toàn cầu trong năm 2019 đạt 1.390 tỷ USD, và dự báo mức này tăng khoảng 5% trong năm 2020. Song hiện theo dự báo của UNCTAD, mức này có thể giảm chạm "đáy" kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008 nếu dịch Covid-19 lây lan và diễn biến phức tạp trong năm nay.

FDI vào Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trong ngắn hạn do Covid-19 - Ảnh 1.

Trước tác động của Covid-19, nhiều chuyên gia kinh kế nhận định nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trong ngắn hạn

FDI vào Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trong ngắn hạn

TS. Võ Trí Thành, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (Bộ KH&ĐT) nhận định, trước những ảnh hưởng của dịch Covid-19, việc FDI toàn cầu năm 2020 giảm xuống là điều chắc chắn. Trong đó, Việt Nam cũng không ngoại lệ.

Ông Thành cho rằng, dịch Covid-19 bùng phát gây ra khó khăn cho kinh tế nhiều quốc gia trên thế giới, ảnh hưởng đến việc đầu tư như dòng vốn dịch chuyển, dịch vụ, con người bị ách tắc, ngưng trệ. Bên cạnh đó, việc triển khai dự án mới đã đầu tư cũng sẽ gián đoạn khi công tác khảo sát thị trường, vận chuyển thiết bị máy móc, bị kiểm soát bởi việc phòng, chống sự lây lan của dịch bệnh từ chính phủ.

Theo TS. Võ Trí Thành, một trong những nguyên nhân nữa dẫn đến việc nguồn thu FDI bị ảnh hưởng, là vì các tập đoàn kinh tế lớn đang tập trung vào việc chống dịch, duy trì sản xuất kinh doanh nên chưa đẩy mạnh đầu tư. Tuy nhiên, ông Thành nhận định, sự sụt giảm FDI vào Việt Nam chỉ diễn ra ở thời gian ngắn hạn, trong bối cảnh nhà đầu tư nhìn nhận lại thị trường, về dài hạn, Việt Nam vẫn sẽ là điểm thu hút FDI tại khu vực.

"Covid-19 không đánh vào nền tảng, nếu Việt Nam chống dịch tốt, môi trường kinh doanh hiệu quả, mà minh chứng tốt nhất là việc Samsung vẫn hoạt động rất tốt ở Việt Nam tại thời điểm dịch bùng phát mạnh ở Hàn Quốc là điểm cộng để các nhà đầu tư nước ngoài thấy Việt Nam là điểm đầu tư an toàn", ông Thành cho hay.

PGS. TS Ngô Trí Long, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) cho rằng, thời điểm dịch bùng phát ở Trung Quốc, một số tập đoàn kinh tế lớn có thể chuyển nhà máy về Việt Nam. Nhưng hiện nay, dịch Covid-19 lan toả trên thế giới dẫn đến các nhà đầu tư hết sức thận trọng xem xét tình hình, đầu tư mới sẽ do dự đưa ra các quyết định ở thời điểm này. Đối với các dự án đã đầu tư, các nhà đầu tư có khả năng sẽ hoãn lại việc tăng vốn.

Mặt khác, TS Ngô Trí Long cho biết, việc Việt Nam đã và đang tham gia hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, trong đó có FTA Việt Nam - EU (EVFTA), cũng đang tạo nên những nền tảng và bệ đỡ quan trọng để dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam.

Ông Long nhận định, sau khi Hiệp Định EVFTA được ký kết, dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam chắc chắn sẽ tăng lên, khi các nhà đầu tư EU hướng tới mục tiêu khai thác tài nguyên, nhiên vật liệu và lao động giá rẻ. Ngoài ra, nhiều sản phẩm xuất khẩu từ EU sang Việt Nam được giảm thuế. Doanh nghiệp EU sang đầu tư ở Việt Nam sẽ được hưởng lợi không chỉ từ thuế của nước mới mở cửa cho Việt Nam giảm xuống mà chúng ta cũng dành rất nhiều ưu đãi cho FDI.

"Tôi cho rằng, xu hướng từ nay đến cuối năm còn phụ thuộc vào diễn biến của dịch Covid-19. Tuy nhiên, với những lợi thế như công tác chống dịch tốt, môi trường kinh doanh trong sạch, nhân công rẻ, chính trị ổn định thì tác động của Covid-19 đối với thu hút FDI của Việt Nam chỉ trong ngắn hạn", ông Long cho hay.

 Cơ hội để cơ cấu lại thị trường

Có hướng nhìn thận trọng hơn, Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho biết, từ hệ lụy của dịch Covid-19, một lần nữa, nhiều quốc gia trên thế giới phải nhìn nhận lại vấn đề phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Đặc biệt là nhóm ngành phụ trợ, nhóm ngành sản xuất..

Theo bà Lan, đây là dịp để các quốc gia cơ cấu lại chuỗi giá trị, các nước cần phải xem xét lại và có những biện pháp để đa dạng hóa mối quan hệ, tìm kiếm thị trường mới ngoài Trung Quốc cùng hợp tác, tạo ra nguồn cung mới. Hay nói cách khác, dịch Covid-19 vừa là thử thách, cũng là cơ hội cho Việt Nam trong vấn đề thu hút FDI.

FDI vào Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trong ngắn hạn do Covid-19 - Ảnh 2.

Dịch Covid-19 vừa là thách thức cũng là cơ hội cho Việt Nam trong thu hút FDI nước ngoài

Ví dụ, năm 2019, mặc dù là năm đầu tiên Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Nguồn đầu tư có tăng lên nhưng chủ yếu tăng lên từ Trung Quốc hoặc vài nước khác như Đài Loan, Hồng Kông... những nước có yếu tố Trung Quốc trong đó, không tăng lên từ đối tác nằm trong CPTPP.

"Chúng ta có một nghịch lý là hội nhập nhiều, tham gia các FTA quan trọng, kể cả những FTA thế hệ mới như CPTPP nhưng kỳ vọng thu hút đầu tư từ những đối tác liên quan lại chưa đạt được những kết quả như mong đợi", bà Lan nói.

Bên cạnh đó, đầu tư từ các nước vào Việt Nam nhiều, xuất khẩu của năm 2019 tăng mạnh sang thị trường Mỹ, thị trường Trung Quốc chứ không phải là sang các thị trường CPTPP, đặc biệt những nước thành viên khác có quan hệ với Việt Nam như Nhật Bản, Úc.. nguồn tăng không đáng kể.

Trong  khi đó, phần xuất khẩu của Việt Nam vẫn là các nước cung cấp đầu vào như Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông..  những đối tác đầu tư vào Việt Nam vẫn được hưởng lợi nhiều hơn, bản thân xuất khẩu đưa lợi lại cho những quốc gia này nhiều hơn là Việt Nam, vì phần giá trị gia tăng của nước ta tăng rất ít.

Bà Lan nhấn mạnh, trong thời gian sắp tới mặc dù có giảm xu hướng đầu tư, tuy nhiên Việt Nam cũng cần phải tính toán, không tiếp nhận quá nhiều đầu tư từ Trung Quốc vào Việt Nam. Đặc biệt là các ngành phụ trợ, đây là lúc Việt Nam phải tự mình phát triển các nghành phụ trợ hoặc là bắt tay với các nước khác trong FTA thế hệ mới, ví dụ như CPTPP hoặc trong khối EU để tăng cường đầu tư của họ vào Việt Nam, tạo thêm giá trị gia tăng để có tận dụng cơ hội xuất khẩu sang các thị trường đó.

"Đây là lúc mà Việt Nàm ngoài bản thân mình còn có thể tăng thêm nỗ lực hợp tác với các nước khác, với vai trò của Việt Nam là chủ tịch ASEAN năm 2020, phát huy vai trò đó động viên các nước ASEAN phát triển một số ngành công nghiệp phụ trợ từ đó bổ sung cho các nước trên thế giới, cùng nhau tham gia vào chuỗi giá trị cao hơn, giảm thiểu một số ngành phải phụ thuộc quá nhiều từ Trung Quốc như hiện tại", bà Chi Lan kỳ vọng.

Theo số liệu từ Cục đầu tư nước ngoài, tính đến 20/2/2020, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN đạt gần 6,47 tỷ USD, bằng 76,4% so với cùng kỳ năm 2019. Vốn thực hiện của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 2,45 tỷ USD, bằng 95% so với cùng kỳ năm 2019.

Tính lũy kế đến ngày 20/02/2020, cả nước có 31.345 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 369,4 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 214,23 tỷ USD, bằng 58% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.

FDI vào Việt Nam trong tháng 2/2020 từ Singapore lớn nhất với tổng vốn đầu tư 4,12 tỷ USD, chiếm 63,7% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Trung Quốc đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 720,4 triệu USD, chiếm 11,1% tổng vốn đầu tư (trong đó có dự án cấp mới 300 triệu USD và 1 dự án điều chỉnh vốn 138 triệu USD; 2 trường hợp này đã chiếm 60,8% tổng vốn đầu tư của Trung Quốc trong 2 tháng). Hàn Quốc đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 425,4 triệu USD, chiếm 6,6% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản,...

Quỳnh Quỳnh
Cùng chuyên mục