Giá cao su hôm nay 8/7: Giá cao su kỳ hạn đồng loạt tiếp đà đi lên

08/07/2022 11:59 GMT+7
Giá cao su hôm nay 8/7 đồng loạt tiếp đà đi lên, với mức tăng gần 1%. Giá cao su kỳ hạn tăng trở lại là một dấu hiệu tích cực cho thị trường.

Giá cao su hôm nay 8/7: Đồng loạt tăng mạnh tại thị trường Nhật Bản và Trung Quốc

Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (Tocom), giá cao su kỳ hạn giao tháng 7/2022 ghi nhận mức 256,2 yen/kg, tăng 0,87%, tăng nhẹ 2,2 yen/kg tại thời điểm khảo sát lúc 11h36 (giờ Việt Nam). Các kỳ hạn cao su tháng 8, 9, 10, 11 đều tăng ở mức gần 1%.

Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 7/2022 đứng ở mức 12.560 nhân dân tệ/tấn, tăng 0,44%%, tăng 55 nhân dân tệ/tấn.

Giá cao su Thượng Hải hôm nay tăng ở tất cả các kỳ hạn tháng 8, 9, 10, 11 với mức tăng nhẹ từ 0,3-0,5%.

Giá cao su hôm nay 8/7: Giá cao su kỳ hạn đồng loạt tiếp đà đi lên - Ảnh 1.

Giá cao su hôm nay 8/7: GIÁ CAO SU TRỰC TUYẾN SÀN TOCOM, THƯỢNG HẢI, THÁI LAN Cập nhật lúc: 08/07/2022 lúc 11:36:01

Giá cao su hôm nay 8/7: Giá cao su kỳ hạn đồng loạt tiếp đà đi lên - Ảnh 2.

Giá cao su hôm nay 8/7: GIÁ CAO SU TRỰC TUYẾN SÀN TOCOM, THƯỢNG HẢI, THÁI LAN Cập nhật lúc: 08/07/2022 lúc 11:36:01

Giá cao su hôm nay 8/7: Giá cao su kỳ hạn đồng loạt tiếp đà đi lên - Ảnh 3.

Giá cao su xuất khẩu bình quân trong tháng 6/2022 đạt gần 1.700 USD/tấn.

Các nước châu Âu, châu Mỹ đang nỗ lực phục hồi kinh tế, kiềm chế lạm phát ổn định đang tạo điều kiện cho ngành chế biến và suất khẩu cao su Việt Nam phát triển.

Theo thống kê hải quan, trong 6 tháng năm 2022, kim ngạch xuất khẩu cao su ước đạt 1,54 tỷ USD, sản lượng 772.000 tấn, tăng hơn 8% về lượng và 28% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021. 

Thông tin từ Hiệp hội cao su Việt Nam, giá cao su xuất khẩu bình quân trong tháng 6/2022 đạt gần 1.700 USD/tấn. Nhìn chung, trong những tháng đầu năm 2022, nhiều chủng loại cao su xuất khẩu đều tăng mạnh cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2021. 

Trong các thị trường nhập khẩu cao su Việt Nam, Trung Quốc chiếm tới 99,7% tổng lượng hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp xuất khẩu của Việt Nam, với sự gia tăng xuất khẩu cả về lượng và giá trị trong những tháng đầu năm. 

Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Nhật Bản và Hàn Quốc là 5 thị trường lớn nhất cung cấp cao su cho Trung Quốc.

Trong thời gian này, Trung Quốc đẩy mạnh nhập khẩu cao su từ một số thị trường như: Thái Lan, Việt Nam, Nhật Bản, Lào, Myanmar, Bờ Biển Ngà… và Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 2 cho Trung Quốc với gần 1 tỷ USD, tăng 4,1% so với cùng kì năm 2021. 

Mỗi tháng Trung Quốc tiêu thụ khoảng 500.000 tấn cao su tự nhiên, trong khi nguồn cung nội địa chỉ đáp ứng được khoảng 115.000 tấn. Do vậy, nhu cầu nhập khẩu cao su của Trung Quốc khá lớn.

Tuy nhiên, tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng do chính sách “Zero Covid” của Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến tiêu thụ cao su của Trung Quốc trong năm 2022. 

Còn tại các thị trường khác như Liên minh châu Âu (EU), Mỹ, Ấn Độ, dự báo tiếp tục xu hướng tăng nhờ kinh tế ở các thị trường này đang dần hồi phục sẽ là tín hiệu lạc quan cho việc xuất khẩu cao su Việt Nam.

Theo dự báo của Tổng cục Cao su Ấn Độ, trong năm 2022, sản lượng cao su thiên nhiên của nước này chỉ đạt 800.000 tấn trong khi nhu cầu tiêu thụ lên tới 1.240.000 tấn. Như vậy, Ấn Độ cần nhập khẩu 440.000 tấn cao su. 

Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ cao su thiên nhiên vẫn còn rất lớn, trong đó bao gồm cả nguồn nguyên liệu cao su có chứng chỉ bền vững FSC (Hội đồng quản lí rừng), tổ chức Forest Trends nhận định, tiêu thụ cao su trên thế giới đang có nhiều thay đổi.

Các quy định về tính hợp pháp và bền vững đối với nguồn cao su nguyên liệu đầu vào tạo sản phẩm ngày càng chặt chẽ. Bên cạnh đó, nhu cầu về cao su thiên nhiên bền vững đang hiện hữu tại Việt Nam. 

Trên thế giới hiện có hai hệ thống chứng chỉ bền vững gồm: PEFC (Chương trình xác nhận chứng chỉ rừng) và FSC (Hội đồng quản lý rừng). Các tiêu chí FSC được coi là khắt khe hơn so với PEFC.

Việt Nam đã phát triển Hệ thống chứng chỉ rừng Quốc gia (VFCS). Hiện hệ thống này được PEFC công nhận. Đến nay, Việt Nam đã khó khoảng 97.300 ha diện tích cao su đạt chứng chỉ VFCS. Toàn bộ diện tích này của các công ty cao su nhà nước. 

Với những diện tích được cấp hệ thống chứng chỉ này, tuy còn thấp so với tổng diện tích cao su của cả nước, nhưng cũng góp phần thúc đẩy ngành cao su tăng thêm sự cạnh tranh, đưa giá cao su tăng cao tương xứng với chất lượng.

Theo thống kê của Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRG), diện tích cao su của Việt Nam năm 2021 đạt gần 939.000ha; trong đó, phần diện tích tiểu điền chiếm khoảng một nửa. Phần còn lại là diện tích của các công ty, với diện tích của các công ty nhà nước (quốc doanh) chiếm gần 40%, công ty tư nhân chiếm gần 10%.

So với nhu cầu ngày càng tăng của các quốc gia sau khi phục hồi kinh tế, sản lượng cao su thiên nhiên trên thế giới chỉ đạt hơn 13,8 triệu tấn trong năm 2021, trong khi nhu cầu của toàn thế giới là hơn 14 triệu tấn. Như vậy nguồn nguyên liệu cao su bị thiếu lên tới khoảng 200.000 tấn.

Nguồn cung cao su toàn cầu đang tiếp tục thiếu hụt so với nhu cầu và sẽ gia tăng thiếu hụt trong những năm tiếp theo cho đến năm 2028, thậm chí có thể kéo dài đến năm 2031 do khoảng cách cung và cầu ngày càng lớn, đại diện Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) dự báo.

Để ngành cao su Việt Nam tiếp bước phát triển, trong 6 tháng đầu năm nay, nguồn nguyên liệu cao su, đặc biệt là nguồn nguyên liệu cao su bền vững luôn được các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cao su chú trọng.


Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục