Giá lúa gạo tiếp tục neo cao, 201 đơn vị đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo
Giá lúa gạo hôm nay 12/1: Nông dân tiếp tục chào giá lúa tăng
Giá lúa gạo hôm nay 12/1 tại Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục neo ở mức cao. Hiện lúa OM 18 đang được thương lái thu mua tại ruộng với mức 6.800 – 6.900 đồng/kg; OM 5451 6.700 – 6.800 đồng/kg; Đài thơm 8 6.900 – 7.100 đồng/kg; nàng hoa 9 6.900 – 7.200 đồng/kg; nếp khô Long An 9.000 – 9.200 đồng/kg, nếp khô An Giang giá dao động 8.400 – 8.600 đồng/kg; lúa Nhật 7.800 – 7.900 đồng/kg; lúa IR 504 ở mức 6.200 – 6.300 đồng/kg; nàng hoa 9 6.600 – 6.800 đồng/kg; lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg; nếp tươi An Giang đang được thương lái thu mua ở mức 7.000 – 7.200 đồng/kg; nếp Long An tươi 7.850 – 8.000 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm duy trì ổn định. Hiện giá gạo nguyên liệu ở mức 9.200 – 9.300 đồng/kg; gạo thành phẩm 10.000 – 10.100 đồng/kg. Tương tự, với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm cũng có xu hướng đi ngang. Hiện giá tấm ở mức 9.300 đồng/kg; cám khô ở mức 8.100 – 8.200 đồng/kg.
Tại chợ lẻ, giá gạo thường 11.500 đồng/kg – 12.500 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 15.000 – 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 14.000 đồng/kg; nếp ruột 14.000 – 15.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg; Gạo thơm thái hạt dài 18.000 – 19.000 đồng/kg; Gạo Hương Lài 19.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg; Nàng Hoa 17.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 20.000 đồng/kg; Cám 7.000 – 8.000 đồng/kg.
Theo các thương lái, hôm nay nguồn gạo về ít, giao dịch gạo chợ trầm lắng, giá gạo neo ở mức cao do nguồn cung ít. Trong tuần qua, đại đa số các kho ngưng mua, nghỉ Tết sớm. Giá lúa Đông xuân sớm cao, giao dịch ít. Từ cuối tháng 12/2022, nông dân đã chào bán lúa tươi Thu Xuân sớm với mức giá giảm nhẹ so với vụ Thu Đông, tuy nhiên tăng đáng kể 200 – 700 đồng/kg. Đặc biệt giá nếp tươi tăng mạnh đến hơn 1.500 đồng/kg so với Đông Xuân năm ngoái.
Trên thị trường xuất khẩu giá chào bán gạo xuất khẩu của Việt Nam duy trì ổn định. Hiện giá gạo tấm 5% tấm đang ở mức 458 USD/tấn; gạo 25% tấm duy trì ở mức 438 USD/tấn, ghi nhận mức cao nhất kể từ giữa tháng 7/2022.
Mới đây, Cục Xuất nhập khẩu công bố danh sách thương nhân được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo đến ngày 5/01/2023. Theo đó, có 201 đơn vị được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo.
Theo các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, không chỉ đạt được sự hấp dẫn về giá mà nhiều doanh nghiệp đã có được những đơn hàng gạo cho đầu năm nay. Với những tín hiệu tích cực, chúng ta hoàn toàn có thể lạc quan rằng, xuất khẩu gạo sẽ tiếp tục thuận lợi trong năm mới 2023.
Hiện các địa phương đang tích cực xuống giống vụ Đông Xuân. Vụ lúa Đông Xuân 2022 - 2023, toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long có kế hoạch xuống giống gần 1,6 triệu ha. Hiện nay, nước lũ mùa nước nổi đang xuống rất nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân tập trung gieo sạ theo đúng lịch khuyến cáo.
Trong báo cáo tháng 12/2022, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo sản lượng gạo thế giới năm 2022/23 giảm 0,4 triệu tấn so với báo cáo trước đó, xuống 503,3 triệu tấn (quy xay xát), thấp hơn 2% so với mức kỷ lục của năm trước và là năm giảm so với năm liền trước lần đầu tiên kể từ niên vụ 2015/16. Đó sẽ là năm sản lượng gạo toàn cầu thấp nhất kể từ 2019/20.
So với báo cáo tháng trước, các con số trong báo cáo tháng này được điều chỉnh giảm đối với sản lượng ở Australia Brazil, Liên minh châu Âu, Panama và Hàn Quốc. Austrlia trồng và xuất khẩu gần như độc quyền loại gạo hạt vừa và hạt ngắn, còn Liên minh Châu Âu sản xuất và xuất khẩu chủ yếu là gạo hạt ngắn và trung bình. Do đó, hai lần điều chỉnh sản xuất này càng thắt chặt thêm tình trạng nguồn cung vốn đã rất hạn chế đối với loại gạo này, do sản lượng của California ở mức thấp nhất kể từ năm 1977/78 và Ai Cập không còn xuất khẩu một lượng gạo đáng kể nào nữa.
Những điều chỉnh về sản lượng như trên và ước tính lượng hàng tồn kho toàn cầu giảm dẫn đến dự báo tổng nguồn cung toàn cầu niên vụ 2022/23 giảm 1,2 triệu tấn xuống còn 685,6 triệu tấn, thấp hơn 2% so với cùng kỳ năm ngoái và là mức thấp nhất kể từ niên vụ 2019/20. Đây là lần đầu tiên nguồn cung gạo toàn cầu giảm kể từ vụ 2004/05.
Trên cơ sở hàng năm, Ấn Độ - quốc gia sản xuất gạo lớn thứ hai trên thế giới - chiếm phần lớn sự sụt giảm sản lượng toàn cầu dự kiến, với sản lượng dự kiến sẽ giảm 6,3 triệu tấn xuống còn 124,0 triệu tấn. Nhà sản xuất số một toàn cầu - Trung Quốc - dự kiến sẽ sản xuất 147,0 triệu tấn gạo, giảm 2,0 triệu tấn so với kỷ lục niên vụ 2021/22. Sản lượng niên vụ 2022/23 của Pakistan dự kiến giảm 2,5 triệu tấn và của Mỹ dự kiến giảm gần 0,9 triệu tấn. Ngoài ra, sản lượng gạo dự kiến sẽ giảm ít nhất 100.000 tấn trong năm 2022/23 ở Australia, Bangladesh, Brazil, Liên minh châu Âu, Ghana, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nepal, Nigeria, Philippines, Sri Lanka và Tanzania.
Ngược lại, sản lượng năm 2022/23 dự kiến sẽ tăng ít nhất 100.000 tấn so với một năm trước đó ở Myanmar, Campuchia, Ai Cập, Indonesia, Iran, Mali, Thái Lan và Việt Nam. Vụ mùa của Ai Cập được dự đoán sẽ đạt mức tăng lớn nhất, tăng 0,7 triệu tấn lên 3,6 triệu tấn dựa trên diện tích thu hoạch lớn hơn và năng suất dự kiến cao hơn. Campuchia dự kiến sẽ thu hoạch một vụ mùa kỷ lục vào năm 2022/23.
Báo cáo tháng 12/2022 của USDA dự báo tiêu thụ gạo toàn cầu niên vụ 2022/23 giảm gần 0,9 triệu tấn so với báo cáo tháng liền trước, xuống còn 516,9 triệu, giảm 3,9 triệu tấn so với kỷ lục của năm trước. Brazil, Ấn Độ và Thái Lan chiếm phần lớn mức điều chỉnh giảm. Dự báo tiêu thụ nội địa của Ấn Độ giảm 0,5 triệu tấn xuống 108,5 triệu tấn, thấp hơn 2,8 triệu tấn so với một năm trước nhưng vẫn là mức cao thứ hai được ghi nhận. Ngược lại, dự báo tiêu thụ nội địa năm 2022/23 ở Canada, Cuba và Somalia được điều chỉnh tăng.
USDA dự báo tồn trữ gạo thế giới cuối niên vụ 2022/23 giảm 0,4 triệu tấn xuống 168,6 triệu tấn, thấp hơn 7,5% so với đầu niên vụ và là năm giảm thứ hai liên tiếp. Tồn kho toàn cầu niên vụ 2022/23 được dự báo ở mức thấp nhất kể từ niên vụ 2017/18. Tồn kho cuối niên vụ 2022/23 của Việt Nam giảm 0,6 triệu tấn xuống 1,1 triệu tấn, giảm 47% so với một năm trước đó và là mức thấp nhất kể từ niên vụ 2018/19. Tồn kho cuối vụ 2022/23 của Thái Lan giảm 0,5 triệu tấn xuống 2,53 triệu tấn, mức thấp nhất kể từ vụ 2006/07. Đối với cả hai quốc gia, dự trữ cuối kỳ trong báo cáo tháng 12 đều giảm, chủ yếu là do xuất khẩu mạnh hơn trong cả niên vụ 2021/22 và 2022/23. Dự báo tồn kho cuối năm 2022/23 cũng đã giảm trong tháng này đối với Australia, Brazil, Hàn Quốc, Oman và Syria. Những điều chỉnh giảm này đã được bù đắp một phần bởi những điều chỉnh tăng dự trữ cuối kỳ 2022/23 đối với Trung Quốc, Bờ Biển nga, Liên minh Châu Âu, Indonesia, Iraq, Philippines, Sri Lanka và Mỹ.
USDA nâng dự báo về xuất khẩu gạo năm 2023 ở Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam, nhưng giảm đối với xuất khẩu của Australia, Brazil và Mỹ. Dự báo về thương mại gạo toàn cầu trong năm dương lịch 2023 được điều chỉnh tăng 0,8 triệu tấn lên 53,8 triệu tấn, nhưng giảm 4% so với mức cao kỷ lục của năm trước và là lần giảm đầu tiên kể từ năm 2019. Dự báo về xuất khẩu gạo Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam năm 2023 được điều chỉnh tăng bù đắp cho việc điều chỉnh giảm đối với xuất khẩu của Australia, Brazil, Liên minh châu Âu và Mỹ.
Về nhập khẩu gạo trong năm 2023, dự báo điều chỉnh tăng đối với Angola, Australia, Canada, Trung Quốc, Cuba, Liên minh Châu Âu, Guatemala, Indonesia, Iraq, Philippines, Somalia và Sri Lanka trong khi giảm đối với Liberia, Libya, Panama, Quatar và Syria.
So với năm trước, dự báo xuất khẩu năm 2023 giảm ở Argentina, Brazil, Campuchia, Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Ấn Độ, Lào, Malaysia, Pakistan, Nga, Senegal, Tanzania, Thổ Nhĩ Kỳ và Uruguay. Xuất khẩu của Ấn Độ dự kiến sẽ giảm 1,20 triệu tấn và của Pakistan giảm 0,80 triệu tấn, chủ yếu do sản luộng giảm. Ngược lại, xuất khẩu của Australia, Myanmar, Guyana và Thái Lan dự kiến sẽ tăng trong năm 2023. Xuất khẩu của Thái Lan dự kiến sẽ tăng 0,6 triệu tấn lên 8,5 triệu - mức cao nhất kể từ năm 2018, chủ yếu nhờ xuất khẩu từ các đối thủ cạnh tranh là Ấn Độ và Pakistan giảm. Xuất khẩu năm 2023 của Mỹ được dự báo là 2,25 triệu tấn, không thay đổi so với năm 2022, mức thấp nhất kể từ năm 1992.
Về mặt nhập khẩu gạo toàn cầu năm 2023, Angola, Australia, Bangladesh, Benin, Campuchia, Canada, China, Costa Rica, Cote d'Ivoire, Egypt, Iraq, South Korea, Madagascar, Mali, Nicaragua, Nigeria, the Philippines, Senegal, Somalia , Sri Lanka, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam dự kiến sẽ nhập khẩu ít gạo hơn vào năm 2023 so với năm 2022. Một phần bù đắp cho sự sụt giảm nhập khẩu dự kiến này là nhập khẩu gạo tăng vào năm 2023 dự kiến cho Afghanistan, Cameroon, Congo (Kinshasa) Cuba, Ecuador, Liên minh Châu Âu , Ghana, Guinea-Bissau, Haiti, Kazakhstan, Kuwait, Liberia, Libya, Mexico, Mozambique, Nepal, Niger, Oman, Panama, Peru, Nga, Nam Phi, Thụy Sĩ, Syria, Tanzania, Thái Lan, Ukraine, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Vương quốc Anh, Mỹ, Venezuela và Yemen. Nhập khẩu của Mỹ và Châu Âu được dự đoán là cao kỷ lục.