Thống đốc Nguyễn Thị Hồng: Khoản vay đặc biệt lãi suất 0% không dẫn tới rủi ro phải bù lãi suất

Linh Anh
10/06/2025 15:38 GMT +7
Về nhóm chính sách chuyển thẩm quyền quyết định cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước với lãi suất 0%/năm, không có tài sản bảo đảm, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, mục đích của ngân hàng trung ương về phát hành tiền không sử dụng nguồn từ ngân sách nhà nước.

Sáng 10/6, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng đã trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ và hội trường, cùng ý kiến thẩm tra chính thức của Ủy ban Kinh tế và Tài chính về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng.

Báo cáo đã tập trung làm rõ cơ sở chính trị, tác động tích cực của dự thảo luật, đồng thời giải trình các nhóm chính sách then chốt như cho vay đặc biệt, thu giữ tài sản bảo đảm và luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14. Với tinh thần cầu thị, Chính phủ đề xuất điều chỉnh để luật có hiệu lực từ 1/8/2025, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính và trật tự xã hội.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng.

Ngân hàng Nhà nước cho vay đặc biệt lãi suất 0%: Ngân sách không phải "bù lãi suất"

Về nhóm chính sách chuyển thẩm quyền quyết định cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước với lãi suất 0%/năm, không có tài sản bảo đảm, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, mục đích của ngân hàng trung ương về phát hành tiền không sử dụng nguồn từ ngân sách nhà nước.

Do đó, việc Ngân hàng Nhà nước cho vay đặc biệt với lãi suất 0%/năm không dẫn đến rủi ro ngân sách nhà nước phải bù lãi suất. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo cơ quan chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan để rà soát các quy định về xử lý các khoản cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước theo chế độ tài chính của ngân hàng này.

“Việc cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước chỉ áp dụng cho hai trường hợp: một là tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt để chi trả cho người gửi tiền, hai là để thực hiện phương án phục hồi, phương án chuyển giao bắt buộc của các tổ chức tín dụng đang bị kiểm soát đặc biệt.

Hoạt động này chỉ được tiến hành sau khi đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ như tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở. Như vậy, cho vay đặc biệt là cần thiết để ngăn chặn hiện tượng rút tiền hàng loạt tại tổ chức tín dụng, hạn chế nguy cơ rủi ro lan truyền sang các tổ chức khác, hoặc hỗ trợ phương án phục hồi, chuyển giao bắt buộc nhằm tái cơ cấu các tổ chức tín dụng bị kiểm soát đặc biệt.

Mục tiêu là đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, an ninh trật tự và an toàn xã hội, không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh cho các tổ chức tín dụng được vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước”, Thống đốc phát biểu.

Thống đốc cũng nhấn mạnh, khoản 3 Điều 194 Luật các Tổ chức tín dụng 2024 đã giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định chi tiết việc cho vay đặc biệt. Thực hiện quy định này, Thống đốc đã ban hành Thông tư số 37/2024/TT-NHNN ngày 30/6/2024, quy định cụ thể mục đích, số tiền, thời hạn, tài sản bảo đảm, điều kiện tài sản bảo đảm, trả nợ vay và trách nhiệm của các bên liên quan.

Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, sau khi dự thảo luật được ban hành, Ngân hàng Nhà nước sẽ nghiên cứu, rà soát, sửa đổi Thông tư số 37/2024/TT-NHNN liên quan đến tiêu chí, điều kiện cho vay đặc biệt với lãi suất 0%/năm, không có tài sản bảo đảm, mục đích sử dụng khoản vay, trách nhiệm của đơn vị được vay và trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước khi cho vay, kiểm soát nguồn tiền để tránh rủi ro, tránh lạm dụng chính sách.

Điều này nhằm giảm áp lực tái cấu trúc nội tại của ngân hàng, tăng cường tính minh bạch về trình tự, thủ tục cho vay, đồng thời tăng cường kiểm soát, ngăn ngừa, hạn chế tổn thất có thể xảy ra, phòng tránh rủi ro đạo đức, rủi ro chính sách và hiệu ứng phụ, bảo đảm niềm tin và công bằng thị trường.

Thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi nêu rõ, quy định về lãi suất cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước là nội dung quan trọng, ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng, an ninh tài chính–tiền tệ quốc gia và nguồn lực của nền kinh tế.

Do còn có cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan, Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính đã có Công văn số 29 ngày 5/6/2025 gửi Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp để tổng hợp, báo cáo Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội xin ý kiến kết luận của cơ quan có thẩm quyền về nội dung này.

Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục hoàn thiện quy định về lãi suất cho vay đặc biệt trên cơ sở ý kiến của cấp có thẩm quyền.

Thu giữ tài sản đảm bảo tôn trọng quyền tự do, tự nguyện của các bên

Đối với quy định về thu giữ tài sản đảm bảo, nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm đến điều kiện thu giữ tài sản đảm bảo; sự tham gia của chính quyền địa phưong; cơ chế kiểm soát để tránh lạm quyền trong thu giữ tài sản đảm bảo.

Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, thu giữ tài sản đảm bảo không phải là hành động đơn phương, vô điều kiện mà phải tuân thủ phạm vi, giới hạn, điều kiện thu giữ; tôn trọng quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận của các bên. Đồng thời, quy định về trình tự, thủ tục thu giữ, công bằng, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên có nghĩa vụ, tổ chức tín dụng và các bên có liên quan.

Về sự tham gia của chính quyền địa phương, Chính phủ giải trình nêu rõ, vai trò của các cơ quan, chính quyền địa phương nhằm xác nhận tình trạng thực tế và đảm bảo an ninh trật tự xã hội khi tổ chức tín dụng thực hiện biện pháp thu giữ, cũng như để ngăn ngừa việc tổ chức tín dụng lạm dụng quyền khi thu giữ, đảm bảo cho việc thu giữ công khai, minh bạch, không gây mất trật tự xã hội, không xâm phạm đến các quyền khác của các chủ thể có liên quan.

Ngoài ra, việc quy định vai trò của UBND cấp xã, cơ quan công an cấp xã khi thu giữ tài sản bảo đảm sẽ tạo ra ý thức tuân thủ của các tổ chức tín dụng, bên bảo đảm/bên vay, người có liên quan nói riêng và người dân tại địa điểm thu giữ nói chung.

Đối với cơ chế kiểm soát để tránh lạm quyền trong thu giữ tài sản đảm bảo, dự thảo Luật quy định tổ chức tín dụng không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội. Dự thảo Luật không hạn chế quyền khiếu nại của các bên khi thu giữ, đặc biệt là quyền khiếu nại của bên bảo đảm, bên đang giữ tài sản bảo đảm.

Việc thu giữ tài sản đảm bảo nói riêng và hoạt động của tổ chức tín dụng nói chung chịu sự quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có Ngân hàng nhà nước, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định.

Ngoài ra, tiếp thu ý kiến thẩm tra, dự thảo Luật điều chỉnh theo hướng Luật này sẽ có hiệu lực sau 45 ngày kể từ ngày Luật này được thông qua, cụ thể là từ ngày 1/8/2025.