Giá lợn hơi vẫn khó "ngóc cổ" do nhu cầu chậm, đàn lợn tiếp tục phục hồi
Giá lợn hơi liên tục đứng dưới mức giá thành sản xuất
Đầu tháng 4, giá lợn hơi trên toàn quốc chỉ dao động trong khoảng 52.000 - 56.000 đồng/kg, giảm 1.000 - 2.000 đồng/kg so với cuối tháng 3/2022.
Trong quý I/2022, sản xuất chăn nuôi cả nước vẫn gặp nhiều khó khăn do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, giá nguyên vật liệu đầu vào ở mức cao, giá thức ăn chăn nuôi biến động mạnh, thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài ở các tỉnh phía Bắc đã ảnh hưởng đến sự phát triển của vật nuôi, thêm vào đó là giá xăng dầu tăng cao đã gây áp lực đến các hoạt động sản xuất chăn nuôi cả nước.
Tổng số trâu của cả nước trong quý I/2022 giảm khoảng 2% so với quý I/2021; trong khi tổng số bò tăng khoảng 1,1%; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng quý I/2022 ước đạt 33,9 nghìn tấn, tăng 1,1%; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 128,9 nghìn tấn, tăng 3,4% so với quý I/2021.
Trong quý I/2022, đàn lợn tiếp tục hồi phục, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát và đàn gia cầm cả nước phát triển ổn định. Ước tính tổng đàn lợn tăng khoảng 4,2% so với quý I/2021; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I/2022 ước đạt 1.041,6 nghìn tấn, tăng 4,3% so với quý I/2021, đạt 24% kế hoạch năm 2022; đàn gia cầm của cả nước tăng khoảng 2,4%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I/2022 ước đạt 507,3 nghìn tấn, tăng 5,3% so với quý I/2021 và đạt 25% kế hoạch cả năm 2022.
Hiện xung đột giữa Nga và Ukraine vẫn chưa hạ nhiệt, khiến giá thức ăn chăn nuôi ở mức cao, trong khi nguy cơ tái phát dịch tả lợn châu Phi rất lớn, dịch cúm gia cầm vẫn xảy ra rải rác tại một số địa phương... sẽ có tác động mạnh đến hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm trong nước.
Giá lợn hơi đến hôm nay (16/4) mới điều chỉnh tăng 1.000 - 3.000 đồng/kg trên cả nước. Hiện tại, giá khảo sát ở các tỉnh thành dao động trong khoảng 53.000 - 58.000 đồng/kg.
Cụ thể: Ngày 16/4, giá lợn hơi khu vực miền Trung - Tây nguyên được điều chỉnh tăng tại nhiều nơi. Theo đó, các tỉnh Nghệ An, Bình Định và Đắk Lắk cùng nhích nhẹ một giá lên mức 54.000 đồng/kg; Quảng Bình, Quảng Trị và Lâm Đồng tăng 2.000 đồng/kg. Đặc biệt, lợn hơi xuất chuồng ở Bình Thuận tăng cao nhất 3.000 đồng/kg lên 58.000 đồng/kg - mức cao nhất khu vực, đưa giá lợn hơi hôm nay tại vùng này dao động trong khoảng 54.000 - 58.000 đồng/kg.
Tại miền Nam, nhiều tỉnh thành cũng có giá lợn hơi tăng từ 1.000 - 3.000 đồng/kg. Cụ thể, lợn hơi tại Đồng Nai, Tây Ninh, Vũng Tàu và Đồng Tháp nhích một giá; tăng 2 giá tại Bình Phước, Bình Dương và Long An. Đặc biệt, lợn hơi xuất chuồng ở TP.HCM hôm nay tăng đến 3 giá, đưa giá chung toàn khu vực dao động trong khoảng 54.000 - 58.000 đồng/kg.
Trong khi đó, giá lợn hơi tại miền Bắc hôm nay đồng loạt lặng sóng, dao động trong khoảng 53.000 - 56.000 đồng/kg.
Suốt thời gian dài, giá heo hơi liên tục đứng dưới mức giá thành sản xuất và dự báo giá sản phẩm chăn nuôi khó tăng cao trong thời gian tới do thị trường tiêu thụ chậm.
Xu hướng đầu tư chăn nuôi heo hiện nay có sự thay đổi so với trước, cả doanh nghiệp lẫn chủ trang trại đều không đẩy mạnh đầu tư trại chăn nuôi mới như vài năm trước; chủ yếu họ giữ quy mô đàn đã có hoặc thuê lại các trại đang ngưng hoạt động.
Xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt cũng "lao dốc"
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, 2 tháng đầu năm 2022, Việt Nam xuất khẩu được 2,32 nghìn tấn thịt và sản phẩm thịt, trị giá 10,67 triệu USD, giảm 17,9% về lượng, nhưng tăng 3,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt giảm là do xuất khẩu sang một số thị trường chủ chốt như thị trường Hồng Kông, Hàn Quốc... giảm mạnh. Trong 2 tháng đầu năm 2022, thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam được xuất khẩu sang 17 thị trường. Trong đó, xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Hồng Kông, chiếm 47,2% tổng lượng thịt và các sản phẩm thịt xuất khẩu của cả nước, đạt 1,09 nghìn tấn, trị giá 6,72 triệu USD, giảm 37,7% về lượng và giảm 4,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Chủng loại thịt và các sản phẩm từ thịt xuất khẩu chủ yếu trong 2 tháng đầu năm 2022 gồm: Thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh; Thịt khác và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ của động vật khác, tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh; Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm thuộc nhóm 01.05, tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh...
Trong đó, thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh được xuất khẩu nhiều nhất với 1,35 nghìn tấn, trị giá 7,51 triệu USD, tăng 66,2% về lượng và tăng 44,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh được xuất khẩu sang các thị trường Hồng Kông, Thái Lan và Lào.
Về nhập khẩu: Theo tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, 2 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu 87,81 nghìn tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 197,04 triệu USD, giảm 7,9% về lượng, nhưng tăng 0,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Trong 2 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt từ 39 thị trường trên thế giới. Trong đó, Ấn Độ là thị trường cung cấp thịt và các sản phẩm từ thịt lớn nhất cho Việt Nam. 2 tháng đầu năm 2022, nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt từ Ấn Độ đạt 25,68 nghìn tấn, trị giá 77,96 triệu USD, tăng 9,1% về lượng và tăng 2,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021; chiếm 29,2% tổng lượng thịt và các sản phẩm từ thịt nhập khẩu của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2022.
Trong 2 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là các chủng loại như: Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm thuộc nhóm 01.05, tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh; thịt trâu tươi đông lạnh; thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh; Phụ phẩm ăn được sau giết mổ của lợn, trâu, bò sống ướp lạnh hoặc đông lạnh; Thịt bò tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh…
Trong đó, nhập khẩu thịt gia cầm và thịt lợn tiếp tục xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2021. Trong 2 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu 15,4 nghìn tấn thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh, trị giá 33,08 triệu USD, giảm 18% về lượng và giảm 26,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021; giá nhập khẩu trung bình đạt 2.149 USD/tấn, giảm 10,8% so với cùng kỳ năm 2021. Thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh được nhập khẩu từ 22 thị trường, trong đó chủ yếu được nhập khẩu từ Brazil chiếm 40,3%; Nga chiếm 19,2% và Canada chiếm 15,3%...