Giải cứu Vietnam Airlines: Tái cấp vốn thì dân nghèo gánh "thuế lạm phát", tăng vốn là sử dụng tiền thuế của dân
Quốc hội vừa đồng ý chủ trương giải cứu Vietnam Airlines với hai biện pháp: Thứ nhất, cho phép Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng cho Vietnam Airlines vay vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, cho phép Vietnam Airlines chào bán thêm cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ. Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) sẽ mua cổ phiếu tại Vietnam Airlines thuộc quyền mua cổ phần của cổ đông Nhà nước.
Giải cứu Vietnam Airlines: Tái cấp vốn từ NHNN, toàn dân sẽ chịu "thuế lạm phát"
Theo PGS.TS Phạm Thế Anh - Kinh tế trưởng VEPR, biện pháp thứ nhất để giải cứu Vietnam Airlines như kể trên thuộc dạng cho vay rủi ro (risky loans). Theo đó, các ngân hàng thương mại ban đầu sẽ cho Vietnam Airlines vay vốn, sau đó đem hợp đồng tín dụng đó thế chấp để lấy tiền ra từ NHNN (tái cấp vốn).
Với biện pháp này, NHNN đóng vai trò là người cho vay cuối cùng, tuy nhiên không phải đối với một tổ chức tín dụng mà là đối với một công ty nằm ngoài lĩnh vực tài chính.
PGS.TS Phạm Thế Anh nhấn mạnh thêm, việc Quốc hội đồng ý giải cứu Vietnam Airlines bên cạnh lý do là công ty nhà nước thì còn một lý do nữa đó là "quá lớn để cho sụp đổ - too big to fail." Đây không phải lần đầu tiên NHNN ra tay giải cứu đối với một "too big to fail."
Còn nhớ vào năm 2015-2016 khi Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) với vài chục nghìn tỷ vốn vay, từ hàng chục ngân hàng trong nước (trong đó BIDV là chủ nợ lớn nhất với khoảng trên 10 nghìn tỷ đồng dư nợ), lâm vào tình trạng mất thanh khoản thì NHNN cũng đã có biện pháp tương tự. Thực chất khi đó đối tượng cần NHNN giải cứu hơn là BIDV, chứ không phải HAGL.
Tại báo cáo tài chính quý III/2020 của Vietnam Airlines, đến cuối tháng 9, vay và nợ thuê tài chính ngắn hạn của Vietnam Airlines ở mức 11.684 tỷ đồng, tăng tới 79,6% so với đầu năm, trong khi vay và nợ thuê tài chính dài hạn giảm nhẹ 8%, xuống còn 23.371 tỷ đồng.
Trong số hơn 20 định chế tài chính đang là "chủ nợ" của hãng hàng không quốc gia thì 2 "ông lớn" quốc doanh là Vietcombank, BIDV đang là ngân hàng cho vay lớn nhất với dư nợ lần lượt 8.049 tỷ đồng, 3.005 tỷ đồng.
So với HAGL khi đó thì Vietnam Airlines hiện có tình hình tài chính lành mạnh hơn nhiều và ngành nghề cũng an toàn hơn. Tuy nhiên, việc giải cứu Vietnam Airlines bằng tái cấp vốn từ NHNN luôn là vấn đề về tính công bằng giữa các doanh nghiệp.
"Vietjet hay Bamboo đều là những doanh nghiệp cùng ngành chịu ảnh hưởng tương tự từ Covid-19, vậy liệu họ có cần giải cứu? Hơn nữa, tiếng là không sử dụng ngân sách nhà nước (tiền thuế của dân) nhưng việc tái cấp vốn từ NHNN sẽ làm tăng cung tiền, ít nhiều sẽ dẫn đến tăng giá. Tức là, toàn dân sẽ chịu "thuế lạm phát – inflation tax." Gánh nặng của thuế lạm phát chủ yếu rơi vào những người giữ nhiều tiền mặt đó là dân nghèo", ông Phạm Thế Anh nêu quan điểm.
Việc bơm vốn cổ phần bản chất là sử dụng tiền thuế của dân
Liên quan đến biện pháp thứ 2, theo PGS.TS Phạm Thế Anh, khả năng tăng vốn của Vietnam Airlines là tương đối dễ dàng và ông thiên về biện pháp này hơn.
Vị này phân tích, việc cho phép Vietnam Airlines tăng vốn, và SCIC mua cổ phiếu theo tỷ lệ vốn góp của nhà nước, là hoạt động bơm vốn cổ phần (equity injections) của nhà nước vào doanh nghiệp. Mặc dù ít có khả năng xảy ra, nhưng vẫn có thể các cổ đông khác của Vietnam Airlines từ chối mua tăng vốn.
Tuy nhiên như tường thuật của báo chí, Quốc hội chỉ cho phép SCIC mua theo quyền mua của nhà nước, không cho phép mua lại quyền mua của các cổ đông khác nếu họ từ chối.
PGS.TS Phạm Thế Anh cho rằng, về bản chất, việc bơm vốn cổ phần là sử dụng tiền thuế của dân, bất kể tiền đó lấy từ ngân sách nhà nước hay từ vốn mà SCIC đang quản lý. Với ngành nghề và những lợi thế mà Vietnam Airlines đang có, việc bơm vốn cổ phần có thể đem lại lợi nhuận trong tương lai một khi ngành hàng không hồi phục và cổ phiếu tăng giá.
Tuy nhiên, trước khi thực hiện bơm vốn cổ phần hoặc tái cấp vốn, Vietnam Airlines nên mở các đợt bán vé thu tiền trước cho các năm 2021-2022, không chỉ với các tuyến bay nội địa mà còn cả với các tuyến bay quốc tế, để giải quyết vấn đề thanh khoản.