Giao dịch lúa mới sôi động, cung tăng, giá gạo vẫn được kéo nhích lên

14/03/2023 14:39 GMT+7
Theo các doanh nghiệp, đầu tuần, giao dịch lúa mới khá hơn, một số nông dân kéo giá nhích nhẹ. Hiện nguồn cung tăng, nhiều địa phương bước vào cao điểm thu hoạch lúa Đông Xuân.

Giá lúa gạo hôm nay 14/3: Nhích tăng nhẹ, giao dịch lúa mới nhiều 

Giá lúa gạo hôm nay 14/3 tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh tăng nhẹ. Hiện giá gạo nguyên liệu, thành phẩm ở mức 9.150 đồng/kg, tăng 50 đồng/kg; gạo thành phẩm 10.100 đồng/kg, tăng 50 đồng/kg. Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm duy trì ổn định. Hiện giá cám khô ở mức 7.700 đồng/kg, giá tấm ở mức 9.000 đồng/kg.

Với mặt hàng lúa, giá lúa không có biến động. Theo đó, tại kho An Giang, lúa Đài thơm 8 6.700 – 6.800 đồng/kg; nếp tươi Long An 6.600 – 6.800 đồng/kg; lúa OM 18 ở mức 6.600 – 6.800 đồng/kg; lúa OM 5451 6.400 – 6.600 đồng/kg; nàng hoa 9 6.800 – 7.100 đồng/kg; nếp khô Long An 9.000 – 9.200 đồng/kg, nếp khô An Giang giá dao động 8.400 – 8.600 đồng/kg; lúa Nhật 7.800 – 7.900 đồng/kg; lúa IR 504 ở mức 6.400 – 6.600 đồng/kg; lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg; nếp tươi An Giang đang được thương lái thu mua ở mức 7.000 – 7.200 đồng/kg; nếp Long An tươi 7.850 – 8.000 đồng/kg.

Tại chợ lẻ, giá gạo thường 11.500 đồng/kg – 12.500 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 15.000 – 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 14.000 đồng/kg; nếp ruột 14.000 – 15.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg; Gạo thơm thái hạt dài 18.000 – 19.000 đồng/kg; Gạo Hương Lài 19.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg; Nàng Hoa 17.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 20.000 đồng/kg; Cám 7.000 – 8.000 đồng/kg.

Theo các doanh nghiệp, đầu tuần, giao dịch lúa mới khá hơn, một số nông dân kéo giá nhích nhẹ. Giá gạo có nhiều biến động, thương lái hỏi mua nhiều hơn, lúa cắt cuối tháng 3 và đầu tháng 4. Riêng mặt hàng gạo Japonica nguồn nhiều, giá gạo xu hướng sụt, nhu cầu mua chậm.

Giao dịch lúa mới sôi động, cung tăng, giá gạo vẫn được kéo nhích lên - Ảnh 1.

Giá lúa gạo hôm nay 14/3 tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh tăng nhẹ.

Trên thị trường thế giới, giá chào bán gạo xuất khẩu của Việt Nam hôm nay chững lại sau phiên điều chỉnh giảm. Hiện giá gạo 5% tấm đang ở mức 443 USD/tấn; gạo 25% tấm duy trì ở mức 423 USD/tấn.

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 2/2023 cả nước xuất khẩu 534.607 tấn gạo, tương đương 286,17 triệu USD, giá trung bình 535,3 USD/tấn, tăng 48,8% về lượng và tăng 53,4% về kim ngạch, và tăng 3,1% về giá so với tháng 1/2023; so với tháng 2/2022 cũng tăng 14% về lượng, tăng 28% kim ngạch và tăng 14,4% về giá.

Theo nhận định của Bộ Công Thương, Trung Quốc mở cửa thị trường trở lại là tín hiệu tích cực cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong năm 2023. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu gạo vẫn còn những khó khăn tiềm ẩn liên quan đến giá cước vận tải biển cao, giá cả đầu vào sản xuất lúa gạo cao cũng như tình hình xung đột ở một số khu vực trên thế giới tác động đến giá các mặt hàng lương thực khác.

Trong tháng 2/2023 xuất khẩu gạo sang thị trường chủ đạo Philippines tăng mạnh trên 111,4% về lượng và kim ngạch so với tháng 1/2023, đạt 273.331 tấn, tương đương 140,49 triệu USD; và cũng giảm % về lượng, tăng 117,8% kim ngạch, tăng 3% về giá so với tháng 2/2022. Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc tháng 2/2023 cũng tăng rất mạnh 121,8% về lượng và tăng 117% kim ngạch so với tháng 1/2023, đạt 105.196 tấn, tương đương 61,61 triệu USD; so với tháng 2/2022 cũng tăng 134,4% về lượng, tăng 182,2% kim ngạch.

Tính chung cả 2 tháng đầu năm 2023 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt trên 893.256 tấn, tương đương gần 472,43 triệu USD, giảm 8,3% về khối lượng, nhưng tăng nhẹ 0,7% về kim ngạch so với 2 tháng đầu năm 2022, giá trung bình đạt 528,9 USD/tấn, tăng 9,8%.

Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 45% trong tổng lượng và chiếm 43,3% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt 401.975 tấn, tương đương 204,69 triệu USD, giá trung bình 509,2 USD/tấn, giảm 25,5% về lượng, giảm 18,2% về kim ngạch nhưng tăng 9,7% về giá so với 2 tháng đầu năm 2022.

Tiếp sau đó là thị trường Trung Quốc chiếm 17% trong tổng lượng và chiếm 19% trong tổng kim ngạch, đạt 152.640 tấn, tương đương 90,01 triệu USD, giá trung bình 589,7 USD/tấn, tăng mạnh 86,4% về lượng và tăng 120,5% kim ngạch; giá tăng 18,3% so với cùng kỳ năm 2022.

Thị trường Indonesia đứng thứ 3 đạt 143.786 tấn, tương đương 67,31triệu USD, giá 468 USD/tấn, tăng mạnh 33.732% về lượng và tăng 30.355% kim ngạch nhưng giảm 10% về giá so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 16% trong tổng lượng và chiếm 14,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.

Xuất khẩu sang các thị trường FTA RCEP đạt 737.657 tấn, tương đương 384,44 triệu USD, tăng 6,9% về lượng, tăng 18% kim ngạch. Xuất khẩu sang các thị trường FTA CPTTP đạt 41.596 tấn, tương đương 23,5 triệu USD, giảm 39,6% về lượng và giả 31,9% kim ngạch.

Nâng chất cho gạo xuất khẩu 

Giao dịch lúa mới sôi động, cung tăng, giá gạo vẫn được kéo nhích lên - Ảnh 2.

Với xu hướng người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn lương thực chất lượng cao, ngành hàng lúa gạo của Việt Nam dần chuyển đổi sản xuất để thích nghi nhằm tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường.

Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được nâng cao cũng góp phần làm tăng nhu cầu gạo Việt Nam từ các nước nhập khẩu.

Xuất khẩu gạo của Việt Nam kết thúc năm 2022 lạc quan hơn kỳ vọng nhờ nhu cầu tích cực từ các thị trường truyền thống như Philippines, Trung Quốc, Bangladesh, châu Phi… Đáng chú ý, xuất khẩu gạo sang thị trường EU ghi nhận sự tăng trưởng vượt bậc ở mức 94.510 tấn gạo và vượt hạn ngạch 80.000 tấn gạo hàng năm mà EU dành cho Việt Nam theo cam kết từ Hiệp định EVFTA. Tương tự, xuất khẩu gạo sang các thị trương CPTPP cũng đạt 578.596 tấn, trị giá trên 280 triệu USD, tăng trên 31% về lượng và gần 20% về kim ngạch.

Trong năm 2023, các chuyên gia dự báo xuất khẩu gạo sẽ tiếp tục thuận lợi bởi giá gạo trong ngắn hạn vẫn duy trì ở mức tốt do bất ổn về kinh tế, chính trị toàn cầu khiến cho nhu cầu dự trữ lương thực để đảm bảo an ninh lương thực của các nước tăng lên. Theo FAO, tỷ lệ các quốc gia và khu vực không đảm bảo an ninh lương thực đã chiếm tới 30,4% dân số thế giới. Vì vậy, gần 30 quốc gia đã thực hiện siết chặt, hạn chế hoặc tạm dừng xuất khẩu lương thực nhằm bảo vệ nguồn cung nội địa.

Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ USDA, thương mại gạo toàn cầu trong năm 2023 sẽ giảm khoảng 4% so với cùng kỳ năm 2022. Xuất khẩu dự báo giảm đồng loạt ở Argentina, Brazil, Campuchia, Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Ấn Độ, Lào, Malaysia, Pakistan, Paraguay, Nga, Senegal, Tanzania, Thổ Nhĩ Kỳ, Uruguay và Mỹ. Trong đó, Ấn Độ và Pakistan giảm nhiều nhất (khoảng 2,1 triệu tấn) do sản lượng giảm và chính sách ổn định thị trường nội địa. Cụ thể, Ấn Độ đã áp dụng lệnh cấm xuất khẩu gạo tấm và áp dụng thuế 20% đối với chủng loại gạo trắng.

Ngành gạo Việt Nam cũng đặt nhiều kỳ vọng vào sự mở cửa trở lại của thị trường Trung Quốc. Trong tháng 1/2023, gạo Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 47.000 tấn, tăng 13,2% so với cùng kỳ 2022. Dự báo trong năm nay, nhu cầu nhập khẩu gạo Việt Nam vào thị trường Trung Quốc quay trở lại như các năm trước đây. 

Với xu hướng người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn lương thực chất lượng cao, ngành hàng lúa gạo của Việt Nam dần chuyển đổi sản xuất để thích nghi nhằm tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường.

Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục