“Nới room” ngân hàng: Chuyện cũ vẫn mới
Từ chuyện của “big 4”
Không còn nhiều thời gian để các nhà băng chuẩn bị cho việc triển khai các quy định bắt buộc về quản trị rủi ro hiện đại, trong đó có các tiêu chuẩn như Basel 2 với các yêu cầu cao về năng lực vốn từ năm 2020.
Trong khi đó, sáng 11/11, ông Vũ Hồng Thanh, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, khi báo cáo Quốc hội trước khi thông qua Nghị quyết kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2020, cho biết, quá trình góp ý dự thảo Nghị quyết có ý kiến đề nghị bổ sung giải pháp tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước vào dự thảo nghị quyết trình Quốc hội thông qua.
Tuy nhiên, việc tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước là việc hệ trọng, đang được thẩm tra, báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo đúng quy trình. Do vậy, Ủy ban đề nghị chưa thể hiện nội dung trên trong dự thảo Nghị quyết.
Liên quan đến nội dung này, tại cả hai kỳ họp Quốc hội trong năm nay, Ngân hàng Nhà nước đều kiến nghị cho phép sử dụng ngân sách nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước.
Tại báo cáo trước thềm kỳ họp này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng cho rằng, việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ của ngân hàng thương mại nhà nước nhằm đảm bảo vai trò chủ đạo của các ngân hàng này trên thị trường tài chính tiền tệ thời gian qua gặp nhiều khó khăn.
Tổng số vốn cần đầu tư, bổ sung cho các ngân hàng thương mại nhà nước là khá lớn để đảm bảo đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel II, trong khi nguồn lực Nhà nước có thể được sử dụng để tăng vốn cho các ngân hàng này cũng hết sức hạn chế.
Nhằm tạo điều kiện triển khai có hiệu quả Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu và Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước đề xuất Chính phủ kiến nghị Quốc hội sửa Nghị quyết số 25/2016/QH14, Nghị quyết số 26/2016/QH14, Nghị quyết số 1023/NQ-UBTVQH13 hoặc ban hành một nghị quyết mới theo hướng cho phép sử dụng ngân sách nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước (không bao gồm 3 ngân hàng mua bắt buộc).
Theo nhận xét của Công ty Chứng khoán Phú Hưng, trong năm cuối cùng thực hiện đề án thí điểm Basel 2, áp lực tăng vốn đè nặng lên nhóm ngân hàng có vốn nhà nước khi tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của nhóm đang ở mức thấp 9,52%.
Việc phát hành thêm vốn cũng gặp nhiều khó khăn khi “room ngoại” không còn nhiều, khả năng tăng vốn bằng lợi nhuận giữ lại cũng gặp giới hạn do vẫn phải chia cổ tức tiền mặt.
Trong 4 ngân hàng lớn nhất, Vietcombank và BIDV tỏ ra "dễ thở" khi hai nhà băng này đã lần lượng tăng vốn điều lệ thành công thời gian gần đây; trong đó BIDV vừa thực hiện chào bán xong 15% cổ phần cho cổ đông Hàn Quốc, thu về khoản tiền lớn.
Hai trường hợp còn lại là Agribank và VietinBank sẽ gặp khó khăn trong tăng vốn điều lệ. Agribank hiện 100% vốn nhà nước, đang xúc tiến kế hoạch cổ phần hóa với rất nhiều khó khăn trong định giá doanh nghiệp, còn VietinBank hiện tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài đã được lấp đầy.
Đến các ngân hàng khác
Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam diễn ra hồi cuối tháng 6 năm nay, đại diện Phòng Thương mại Hoa Kỳ (Amcham) đặt ra vấn đề, Việt Nam không nên giới hạn tỷ lệ sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài trong các ngân hàng và công ty tài chính là 30%, trong đó mức cao nhất dành cho các tổ chức là 20%.
Theo lý giải của tổ chức này, đây là tỷ lệ thấp nhất áp dụng với các nhà băng tính trong khu vực.
Xét về tỷ lệ sở hữu, 30% hay thấp hơn là 20%, thực tế không có giá trị về mặt quản trị với các ngân hàng ngoại khi rót vốn vào ngân hàng Việt, bởi nó không cho phép các nhà băng ngoại có tiếng nói quyết định với ngân hàng.
Theo các quy định của pháp luật Việt Nam, tỷ lệ tối thiểu 36% mới cho phép các nhà đầu tư phủ quyết các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp, trong đó gồm cả các ngân hàng.
Trên thực tế, khi các định chế tài chính tham gia bỏ vốn vào ngân hàng Việt, họ đều có thể cử đại diện tham gia hội đồng quản trị, chẳng hạn HSBC từng có đại diện trong Hội đồng quản trị Techcombank, SG (Pháp) từng có ứng viên tham gia Hội đồng quản trị SeaBank, hay đại diện Mizuho tham gia quản trị tại VCB.
Tuy nhiên, họ đều là các thành viên thiểu số nên lá phiếu ít quyền lực tại các ngân hàng.
Khi chuẩn Basel 3 được áp dụng trên thế giới sẽ không cho phép tính phần vốn góp của các tổ chức tài chính quốc tế trong ngân hàng Việt được gộp chung một rổ vào việc tính hệ số an toàn vốn của ngân hàng, mà yêu cầu bóc tách ở từng thị trường, nhiều ngân hàng ngoại đã chọn cách thoái vốn tại ngân hàng Việt.
Lãnh đạo Techcombank từng viện dẫn lý do này để giải thích cho việc HSBC chia tay với Techcombank vài năm trước.
Việc tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài lên 40%, thậm chí hơn được cộng đồng nhà đầu tư quốc tế cho rằng phù hợp với bối cảnh thị trường hội nhập quốc tế. Đặc biệt là tại Việt Nam, đã có những ngân hàng 100% vốn nước ngoài được cấp phép hoạt động.
Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh các ngân hàng Việt buộc phải gia tăng năng lực cạnh tranh trong môi trường hội nhập quốc tế, so sánh với các ngân hàng khu vực.
Đại diện Amcham dẫn chiếu, các số liệu thống kê cho thấy, tính đến đầu năm 2019, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của toàn hệ thống đứng ở mức 12%, trong đó khối ngân hàng thương mại nhà nước chỉ đạt trung bình 9%.
Đây thuộc nhóm thấp nhất nếu so sánh với các ngân hàng trong khu vực như Malaysia, Indonesia, Philippines..., chứ chưa nói đến các định chế tài chính thuộc các nền kinh tế như Singapore, Hồng Kông...
Nếu không có thêm nguồn vốn ngoại tham gia đầu tư, ngân hàng Việt chỉ quẩn quanh với nguồn vốn tăng thêm từ cổ tức không chia, phát hành trái phiếu, tăng vốn cho cổ đông hiện hữu (các ngân hàng có vốn nhà nước chi phối rất khó thực hiện tăng vốn từ cổ đông hiện hữu vì nhà nước thiếu nguồn lực đầu tư thêm).
E ngại quyền quản trị
Chuyện nới room ngân hàng về mặt kỹ thuật không khó, nhưng nguyên nhân sâu xa khiến vấn đề này trở nên nhạy cảm chính bởi ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt quan trọng với nền kinh tế.
Ông Cấn Văn Lực, chuyên gia ngân hàng, nhắc đến một số thương vụ M&A ở các lĩnh vực khác, mà ở đó khi nhà đầu tư ngoại nắm quyền chi phối có thể ra những quyết định phục vụ lợi ích ngắn hạn của nhà đầu tư thay vì suy xét trên bức tranh lớn của cả ngành và nền kinh tế.
Tuy nhiên, cũng chính chuyên gia này cho rằng, là ngành đặc biệt, cơ quan quản lý nhà nước, mà ở đây là ngân hàng trung ương, có thêm nhiều công cụ mềm khác để quản trị và quản lý các ngân hàng. Do đó, đây không phải là vấn đề đáng quan ngại.
Thời gian để các ngân hàng Việt buộc phải thực thi được Basel 2 không còn nhiều. Chỉ có thực thi bộ chuẩn mực này, các ngân hàng Việt mới nâng chuẩn của mình lên tầm quốc tế, tạo nền tảng tốt phục vụ khách hàng, tiếp cận với thị trường vốn quốc tế một cách dễ dàng, với chi phí thấp và tăng mức độ tin cậy của các định chế tài chính toàn cầu, các nhà đầu tư, tổ chức quốc tế đến Việt Nam.
Tuy nhiên, không phải ngân hàng nào cũng có thể dễ dàng đáp ứng. Để áp dụng Basel 2, các ngân hàng phải có tầm nhìn chiến lược, mạnh tay đầu tư nhân lực, vật lực (công nghệ, chi phí vận hành, thay đổi cách làm, thay đổi hệ thống...) để chuẩn hóa về quản trị rủi ro theo đúng chuẩn quốc tế.
Đơn cử, với chỉ số CAR, ngân hàng áp dụng Basel 2 phải có năng lực tài chính cao hơn ít nhất 20% so với ngân hàng chưa áp dụng.
Từ đầu năm đến nay, thị trường cũng chỉ chứng kiến lác đác ngân hàng tư thương công bố tăng vốn thành công dù rất nhiều đại hội đồng cổ đông ngân hàng thông qua kế hoạch tăng vốn.
Câu chuyện ngân hàng nội cần thêm các trợ lực ngoại được nhìn nhận tiếp tục là chủ đề được đưa ra thảo luận và đề cập tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam diễn ra tháng 12 tới.