Bài 4: Công nghệ sẽ giải quyết bài toán khó về bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam?
Thực tế, giải pháp ứng dụng công nghệ để xây dựng sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp cũng như hỗ trợ công tác giải quyết bồi thường cũng đã được nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện. Tuy nhiên, để áp dụng vào Việt Nam, với một nền nông nghiệp có tính đặc thù thì mọi việc cũng không hề đơn giản.
Bảo hiểm nông nghiệp đã được triển khai nhưng chưa như mong đợi
Bản chất của ngành nông nghiệp là gắn liền với rủi ro lớn. Do vậy, bảo hiểm nông nghiệp - công cụ tài chính gắn liền với hoạt động kinh doanh nông nghiệp, bảo vệ người nông dân trước rủi ro thiên tai, thời tiết, dịch bệnh cũng như rủi ro về biến động giá cả trên thị trường - chính là một công cụ chia sẻ rủi ro hữu ích đối với người sản xuất nông nghiệp.
Thực tế cho thấy, do sự đòi hỏi cao về năng lực đánh giá thống kê, cộng với việc các thông tin liên quan đến hoạt động bảo hiểm nông nghiệp rất rườm rà và đòi hỏi nhiều nhận định mang tính chất chủ quan... do vậy các tổ chức tài chính còn chưa "mặn mà" trong việc cung cấp các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp.
Trên thế giới, tại các nước phát triển và các nước đang phát triển, các Chính phủ đã và đang có những chính sách hỗ trợ thúc đẩy phát triển bảo hiểm nông nghiệp. Tuy nhiên, không phải tất cả các chính sách bảo hiểm nông nghiệp đạt được hiệu quả như mong muốn.
Ở Việt Nam, với đặc thù nền nông nghiệp sản xuất manh mún, quy mô sản xuất nhỏ thì khả năng tham gia bảo hiểm nông nghiệp càng hạn chế; kể cả trong trường hợp có bảo hiểm nông nghiệp thì chi phí bảo hiểm lớn là một gánh nặng cho người tham gia bảo hiểm.
Thực tế triển khai cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2013, bảo hiểm nông nghiệp được triển khai thí điểm theo Quyết định số 315/QĐ-TTg ngày 01/03/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Trong giai đoạn thí điểm, bảo hiểm nông nghiệp được triển khai đối với cây trồng (cây lúa), vật nuôi (trâu, bò, gia cầm) và thủy sản (tôm, cá tra) tại địa bàn 20 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Sau 3 năm thực hiện, chương trình thí điểm đã đạt được những kết quả tích cực như: Đã thiết lập được hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thí điểm bảo hiểm trong nông nghiệp; Đã thu hút được các hộ dân ở các huyện, xã được lựa chọn thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp của 20 tỉnh, thành phố tham gia, trong đó, đáng chú ý, quá trình thực hiện thí điểm đã góp phần hình thành 03 sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp đối với cây trồng (cây lúa), vật nuôi (trâu, bò, gia cầm) và thủy sản (tôm, cá tra).
Triển khai thực hiện 03 sản phẩm bảo hiểm trên, các doanh nghiệp bảo hiểm đã bảo hiểm cho hơn 65 nghìn ha lúa với giá trị được bảo hiểm 2.150 tỷ đồng, 1 triệu 246 nghìn con vật nuôi với giá trị được bảo hiểm đạt 2.713 tỷ đồng, 5.803 ha nuôi thủy sản với giá trị được bảo hiểm 2.883 tỷ đồng. Đồng thời, các doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện bồi thường bảo hiểm cây lúa 17,4 tỷ đồng; vật nuôi: 19,5 tỷ đồng; thủy sản: 675,9 tỷ đồng; tỷ lệ bồi thường chung cho toàn bộ chương trình lên đến trên 180%.
Theo đánh giá của các doanh nghiệp bảo hiểm đã triển khai các chương trình bảo hiểm trong giai đoạn này, bên cạnh một số kết quả đạt được thì quá trình thực hiện đã bộc lộ những hạn chế ở công tác tuyên truyền vận động; công tác giám sát tuân thủ quy trình sản xuất, tuân thủ quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và kiểm soát rủi ro trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, thời gian thực hiện tương đối ngắn, chưa đủ để áp dụng các điều chỉnh trong quá trình triển khai dẫn đến kết quả đánh giá có thể chưa phản ánh đúng tinh thần nghiệp vụ. Và bên cạnh đó, thiếu công cụ quản lý số liệu cũng là một hạn chế trong quá trình triển khai.
Áp dụng công nghệ sẽ là giải pháp cho tương lai?
Mới đây, Bộ Tài chính đã phối hợp cùng với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các Bộ, ngành liên quan trình Chính phủ ban hành Nghị định số 58/2018/NĐ-CP ngày 18/4/2018 về bảo hiểm nông nghiệp (Nghị định số 58/2018/NĐ-CP) và Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg ngày 26/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp (Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg).
Hiện một số doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã tham gia các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp. Từ những kinh nghiệm thực tế đã triển khai những năm trước đó, theo nhiều doanh nghiệp bảo hiểm, để sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp được xây dựng bám sát với thực tế sản xuất nông nghiệp tại các địa phương, cần phải thu thập đầy đủ số liệu thống kê về tình hình sản xuất nông nghiệp tối thiểu trong phạm vi thời gian 10-15 năm gần đây, đặc biệt là số liệu chi tiết đến cấp xã.
Trong điều kiện còn có nhiều khó khăn trong tiếp cận các nguồn dữ liệu chính thức hiện nay, thì việc ứng dụng công nghệ nhằm tính toán, tập hợp dữ liệu lịch sử để xây dựng sản phẩm bảo hiểm cũng như hỗ trợ cho công tác giải quyết bồi thường trong giai đoạn triển khai thực hiện là cần thiết.
Hiện nay, nước ta đang thực Giai đoạn 3 Dự án "Hệ thống thông tin viễn thám và bảo hiểm nông nghiệp tại các nền kinh tế mới nổi" (RIICE). Đây là dự án nằm trong dự án toàn cầu của Cơ quan Phát triển và Hợp tác Thụy Sĩ (SDC) hỗ trợ một số nước sản xuất lúa gạo trong khu vực.
Cụ thể, RIICE sẽ được Sarmap, một công ty trụ sở tại Thụy Sỹ hỗ trợ kỹ thuật về xử lý dữ liệu vệ tinh, và IRRI (Viện Nghiên cứu lúa quốc tế trụ sở tại Philippines) hỗ trợ kỹ thuật về dự báo năng suất lúa. Ngoài ra, công ty tái bảo hiểm Swisss Re cũng đóng góp kinh nghiệm về bảo hiểm nông nghiệp vào quá trình thực hiện dự án.
Theo đó, RIICE cung cấp dữ liệu lịch sử về sản xuất lúa (gồm các chỉ số năng suất) trong khoảng thời gian từ khi gieo trồng cho đến khi thu hoạch một vụ lúa để giúp các chuyên gia hoàn tất việc quyết định phạm vi bảo hiểm và định giá sản phẩm. Các chuyên gia công nghệ RIICE sẽ cung cấp và tính toán các chỉ số sụt giảm trong vụ sản xuất lúa do các rủi ro thiên tai, dịch bệnh để các nhà bảo hiểm tính toán mức bồi thường.
Việc ứng dụng công nghệ viễn thám (RIICE) trong bảo hiểm cây lúa hứa hẹn giúp các nhà bảo hiểm rút ngắn thời gian thu thập thông tin dữ liệu, nhanh chóng ra quyết định về bồi thường nhằm chi trả kịp thời và nhanh nhất (trong vòng 10-15 ngày) cho bên mua bảo hiểm để kịp thời khắc phục mùa vụ giúp người nông dân duy trì sản xuất và phát triển bền vững.
Trong bối cảnh việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp tại nước ta đang gặp khó thì việc áp dụng công nghệ vào lĩnh vực này đang cho thấy những điểm sáng. Cách mạng công nghệ 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, do vậy đẩy mạnh phát triển công nghệ trong ngành nông nghiệp đang trở thành một điều tất yếu. Điều này cho thấy, hy vọng của người nông dân Việt Nam về những sản phẩm bảo hiểm rủi ro phù hợp đối với những thành quả lao động của mình không phải không có cơ sở.