Đề nghị miễn toàn bộ thuế đất cho người sản xuất trực tiếp nông nghiệp
Góp ý vào dự thảo Nghị quyết, đại biểu Hà Sĩ Đồng (đoàn Quảng Trị) đánh giá chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong nhiều năm qua đã góp phần rất quan trọng trong việc giảm bớt gánh nặng tài chính, khuyến khích người dân giữ đất, giữ nghề và duy trì sản xuất nông nghiệp trước những rủi ro như thiên tai, dịch bệnh và giá cả biến động.
Với một quốc gia nông nghiệp, nơi trên 70% dân số sống ở nông thôn và thu nhập chủ yếu dựa vào sản xuất quy mô nhỏ, chính sách này không chỉ là hỗ trợ trước mắt mà còn là giải pháp an sinh xã hội thiết thực, góp phần ổn định đời sống và giảm áp lực ly nông, ly hương.

Tuy nhiên, đại biểu đề nghị cần rà soát đối tượng được miễn thuế để đảm bảo công bằng và đúng mục tiêu chính sách. Việc miễn thuế nên tập trung vào những người trực tiếp sản xuất, các hợp tác xã, và hộ gia đình thực hành canh tác bền vững.
Đối với các tổ chức, doanh nghiệp tích tụ đất quy mô lớn nhưng không trực tiếp canh tác hoặc sử dụng đất kém hiệu quả, cần có cơ chế sàng lọc, đánh giá cụ thể để tránh lợi dụng chính sách, gây lãng phí ngân sách và tạo ra sự bất bình đẳng.
Đồng thời, ông cho rằng cần gắn chính sách miễn thuế với yêu cầu sử dụng đất hiệu quả, tuân thủ quy hoạch.
Đại biểu Đồng nêu tình trạng bỏ hoang đất nông nghiệp đang gia tăng do thiếu nhân lực, thu nhập thấp, thiên tai, dịch bệnh nhiều.
Do đó, thời gian tới, đại biểu cho rằng cần có các chính sách hỗ trợ song hành như đào tạo nghề, tín dụng ưu đãi, xây dựng chuỗi giá trị bền vững, qua đó, giúp chính sách miễn thuế không chỉ giảm thu mà còn thực sự kích hoạt tiềm năng của nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Mặt khác, đại biểu đề nghị Chính phủ cần định kỳ báo cáo Quốc hội về tác động của chính sách, bao gồm mức hỗ trợ thực tế, hiệu quả sử dụng đất và sự tăng trưởng của khu vực nông nghiệp. Điều này giúp đảm bảo chính sách thực sự đi vào cuộc sống, đặc biệt là tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững và giá trị cao.
Cho rằng việc miễn thuế còn mang tính đại trà, chưa phân loại rõ ràng giữa các nhóm đối tượng, dẫn đến thiếu công bằng và dễ bị lợi dụng, đại biểu Thạch Phước Bình (đoàn Trà Vinh) cho rằng cần phân tầng chính sách như miễn toàn bộ cho người trực tiếp sản xuất, giảm hoặc giữ nguyên mức thuế cho các tổ chức, cá nhân không sản xuất thực tế hoặc không có hoạt động sản xuất hiệu quả.
Việc miễn thuế cần đi kèm các ràng buộc như không bỏ hoang đất quá 12 tháng, sử dụng đúng mục đích, có hợp đồng rõ ràng nếu cho thuê lại và bảo vệ môi trường đất và tài nguyên sinh thái.
"Những điều kiện này là cần thiết để tránh tình trạng "ôm đất chờ thời", đất không sản xuất vẫn được hưởng ưu đãi, gây lãng phí tài sản quốc gia", ông Bình nói.
Mặt khác, đại biểu Bình cho rằng chính sách thuế nên là một phần trong hệ sinh thái hỗ trợ nông nghiệp, bao gồm tín dụng ưu đãi, đào tạo kỹ thuật, bảo hiểm mùa vụ, phát triển chuỗi giá trị và ứng dụng khoa học công nghệ. Như vậy, người dân có động lực mạnh hơn trong đầu tư sản xuất, hiệu quả sử dụng đất được nâng cao rõ ràng.

Hơn nữa, để đảm bảo chính sách miễn thuế không trở thành hình thức, đại biểu cho rằng cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia để giám sát việc thực hiện chính sách, báo cáo đánh giá định kỳ hai năm một lần.
Các chỉ tiêu đánh giá có thể bao gồm số lượng, đối tượng được miễn thuế, tình trạng sử dụng đất, hiệu quả kinh tế, mức độ thất thu ngân sách.
Các địa phương phải có trách nhiệm cập nhật, báo cáo và giải trình khi có sai lệch hoặc lạm dụng chính sách.
Giải trình làm rõ, về đối tượng miễn thuế, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết dựa trên tổng kết các nghị quyết trước đây của Quốc hội, các trường hợp được miễn thuế hiện nay vẫn còn phù hợp. Do đó, Chính phủ không đề xuất sửa đổi đối tượng hay phạm vi miễn thuế mà chỉ kéo dài thời gian áp dụng đến hết năm 2030.
Về giải pháp chống bỏ hoang đất, Bộ trưởng cho biết Luật Đất đai 2024 đã có những quy định rất cụ thể.