Dự án Lô B - Ô Môn tác động thế nào đến doanh nghiệp ngành dầu khí?

07/06/2023 08:04 GMT+7
Vì Lô B – Ô Môn là đại dự án kết hợp các mỏ khí thượng nguồn, đường ống vận chuyển trung nguồn và các nhà máy điện hạ nguồn, do đó phải có hợp đồng quy định việc mua, vận chuyển và bán khí, cũng như hợp đồng bán điện cho lưới điện. Loạt DN sẽ được hưởn lợi từ dự án này như GAS, PVS, PVD

Lô B – Ô Môn là chuỗi dự án phát triển, khai thác và vận chuyển khí từ các mỏ khí thượng nguồn tại Lô B&48/95 và Lô 52/97 đến các nhà máy nhiệt điện khí ở hạ nguồn. Quyết định đầu tư cuối cùng (FID) cho dự án dự kiến sẽ được phê duyệt vào tháng 6/2023 và dòng khí đầu tiên dự kiến được khai thác vào năm 2026. Dự án dự kiến sẽ cung cấp tổng cộng 3,95 nghìn tỷ bộ khối, tương đương khoảng 102 tỷ m3, và 12,65 triệu thùng condensate, trong vòng đời 23 năm. 

Dự án Lô B - Ô Môn tác động thế nào đến các cổ phiếu ngành dầu khí? - Ảnh 1.

Tổng giá trị đầu tư cho hợp phần thượng nguồn (bao gồm Chi phí đầu tư cơ bản, Chi phí vận hành và chi phí hủy mỏ) ước tính khoảng 17 tỷ USD. Sau khi hoàn thành, dòng khí từ các mỏ Lô B sẽ được vận chuyển qua đường ống dẫn khí Lô B – Ô Môn đến các đơn vị tiêu thụ hạ nguồn, bao gồm 4 nhà máy điện Ô Môn tại tỉnh Cần Thơ, vớitổng nhu cầu khí cho tổ hợp khoảng 5 tỷ m3/năm, chia cho 4 nhà máy (Ô Môn 1, 2, 3, 4).

Vì Lô B – Ô Môn là đại dự án kết hợp các mỏ khí thượng nguồn, đường ống vận chuyển trung nguồn và các nhà máy điện hạ nguồn, do đó phải có hợp đồng quy định việc mua, vận chuyển và bán khí, cũng như hợp đồng bán điện cho lưới điện (GSPA, GTA, GSA). Để FID được phê duyệt, tất cả các thành phần này cần được các bên liên quan thực hiện đồng thời. Hiện tại, dựa trên những thông tin SSI Research tìm hiểu được, tất cả các bên vẫn còn rất vấn đề cần giải quyết và đạt được FID kịp thời. Do đó, SSI Research duy trì giả định cơ sở hiện tại rằng FID cho Lô B sẽ chỉ được phê duyệt vào nửa cuối năm 2023, muộn hơn vài tháng so với thời hạn hiện tại (tháng 6/2023).

SSI Research cho rằng các công ty dầu khí được hưởng lợi nhiều nhất từ dự án Lô B bao gồm GAS, PVS, PVD, PVC, PVB và PXS. 

Tổng CTCP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (HNX: PVS)

Sau khi đạt được FID, PVS sẽ là đơn vị đầu tiên có khả năng hưởng lợi từ dự án Lô B, do giai đoạn đầu tư ban đầu (giai đoạn đầu từ năm 2023 đến FG) cho phần thượng nguồn của Lô B ước tính khoảng 1,5 tỷ USD, bao gồm: một Giàn xử lý trung tâm và một Khu sinh hoạt (1 tỷ USD), một số giàn thu gom (200 triệu USD), hệ thống đường ống nội bộ (100 triệu USD) và các hệ thống khác. PVS đã nộp hồ sơ thầu cho giai đoạn 1 tại thời điểm viết bài và đang chờ kết quả đấu thầu, dự kiến sẽ được công bố trong 1-2 tháng tới.

SSI Research giả định PVS sẽ giành được 50% backlog EPC tiềm năng trị giá 1,5 tỷ USD cho đến FG, tương đương khoảng 700 triệu USD khối lượng công việc liên quan đến Lô B trong giai đoạn 2024-2027.

Về dài hạn, PVS có thể hưởng lợi từ các giai đoạn khác của dự án cho đến khi kết thúc vòng đời dự án (2049), do các giai đoạn này vẫn cần đầu tư vào giàn thu gom khí, giàn đầu giếng, hệ thống đường ống nội bộ và CPP mở rộng, với tổng vốn đầu tư dự kiến là 2,7 tỷ USD bao gồm dự phòng tăng giá 2% mỗi năm. Với giả định đầu tư dần mỗi năm, vốn đầu tư hàng năm cho các giai đoạn này từ FG đến khi kết thúc vòng đời dự án (23 năm) sẽ là 110 triệu USD mỗi năm, chưa bao gồm chi phí ngừng hoạt động. Đây cũng sẽ là nguồn việc liên tục cho PVS trên thị trường xây lắp dầu khí trong nước.

Về mặt vận hành, dự án Lô B- Ô Môn có thể sẽ yêu cầu các dịch vụ O&M thường xuyên cũng như FSO cho kho chứa condensate và các dịch vụ tàu chuyên dụng trong suốt vòng đời của các dự án này, do PVS có thể cung cấp. Công ty đã nộp hồ sơ dự thầu cho FSO tại thời điểm viết bài.

Hơn nữa, với việc phê duyệt Quy hoạch Phát triển Điện lực VIII (PDP 8) gần đây, SSI Research nhận thấy có thêm động lực để thúc đẩy các nguồn năng lượng sạch hơn, bao gồm khí đốt tự nhiên (Lô B, Cá voi xanh…), nguồn LNG và điện gió ngoài khơi. SSI Research cho rằng PVS khá phù hợp với chủ đề này, vì PVS có chuyên môn và kinh nghiệm thu được từ tổ hợp LNG đầu tiên (kho cảng và bể chứa LNG Thị Vải trị giá 120 triệu USD hoàn thành vào năm 2022); và điện gió ngoài khơi (trang trại điện gió của Orsted gần đây đã được ký kết và sẽ hoàn thành vào năm 2025, với hợp đồng EPC trị giá 300 triệu USD cho 33 chân đế).

Các giả định lợi nhuận như sau:

SSI Research nhận thấy việc khởi công Lô B sẽ đóng vai trò là lực đẩy dài hạn cho PVS về khối lượng công việc và lợi nhuận. Với giả định hiện tại, SSI Research giả định giá trị EPCI của PVS sẽ đạt 600 triệu USD vào năm 2026 (tương đương với mức cao nhất của PVS vào năm 2014), theo đó CAGR doanh thu 3 năm là 10,3% và CAGR LNST của công ty mẹ 3 năm là 15,9% trong giai đoạn 2023- 2026.

SSI Research đưa 150 triệu USD vào ước tính giá trị EPC điện gió ngoài khơi hàng năm trong vòng 5 năm tới để nắm bắt các cơ hội sắp tới tại các thị trường trong khu vực.

CAGR NPATMI 3 năm của PVS ước đạt 15,9%/năm trong giai đoạn 2023-2026 với các giả định hiện tại của SSI Research về backlog như đã đề cập ở trên. Tỷ suất lợi nhuận gộp EPCI được giả định sẽ cải thiện dần từ 1,8% trong năm 2023 lên 3% vào năm 2026 nhờ tỷ trọng khối lượng công việc ngoài khơi trong nước cao hơn.

Tổng CTCP Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí (HoSE: PVD)

Trong giai đoạn đầu tiên của dự án Lô B (từ 2023 đến FG), cần khoan 5 giếng thẩm định và gần 80 giếng khai thác với tổng chi phí khoan ước tính (đã tính đến dự phòng tăng giá 2%/năm) giao động từ 350 USD- 400 triệu. Việc khoan có thể bắt đầu từ năm 2025-2026, dự kiến cần hai giàn khoan cho giai đoạn này. Nếu PVD có thể giành được 50% khối lượng công việc, công ty có thể đạt 100 triệu USD doanh thu khoan/liên quan đến khoan mỗi năm trong giai đoạn 2025 và 2026.

Trong các giai đoạn sau, các giếng khai thác bổ sung (tổng cộng 911 giếng) sẽ cần được khoan từ FG cho đến khi kết thúc vòng đời dự án, SSI Research kỳ vọng doanh thu khoan khá lớn mỗi năm trong vòng 23 năm vòng đời dự án. Đây sẽ là nguồn công việc dài hạn cho PVD tại thị trường trong nước.

Theo ước tính hiện tại, SSI Research giả định PVD sẽ đưa hai giàn khoan tự nâng từ thị trường quốc tế về Việt Nam để khoan cho dự án Lô B, do đó PVD không cần đầu tư thêm. Tuy nhiên, trong cuộc họp với các chuyên viên phân tích gần đây, ban lãnh đạo cho biết công ty sẽ xem xét việc xây dựng các giàn khoan mới cho Lô B nếu có hợp đồng khoan dài hạn với nhà điều hành Lô B (PQPOC).

Tổng Công ty khí Việt Nam - CTCP (HoSE: GAS)

Trong trường hợp Lô B bắt đầu vận hành vào cuối năm 2026 như dự kiến, các mỏ của Lô B dự kiến sẽ cung cấp lượng khí hàng năm là 5 tỷ m3, tương đương 65% sản lượng khí khô tiêu thụ của GAS cho năm 2022. Cùng với LNG Thị Vải và Sơn My, dự án sẽ bổ sung nguồn khí đầu vào cho GAS khi các mỏ hiện tại đang dần cạn kiệt, đặc biệt là các mỏ ở bể Cửu Long và bể Nam Côn Sơn, với tổng trữ lượng dự kiến sẽ giảm từ 4,44 tỷ m3 vào năm 2022 xuống 900 triệu m3 vào năm 2030.

GAS là cổ đông lớn sở hữu 51% cổ phần trong dự án đường ống vận chuyển có giá trị đầu tư 1,3 tỷ USD với chiều dài 295 km cho phần ngoài khơi và 102 km cho phần trên bờ.

Theo thông tin sơ bộ, giá cước vận chuyển của dự án có thể sẽ đạt khoảng 1,90 USD/MMBTU vào năm 2027, với mức dự phòng trượt giá hàng năm là 2% trong những năm tiếp theo. SSI Research ước tính dự án đường ống sẽ mang lại tổng doanh thu vận tải hơn 7 tỷ USD trong suốt vòng đời của dự án. Tuy nhiên, do dự án có thể bắt đầu từ cuối năm 2026, SSI Research ước tính tăng trưởng lợi nhuận hàng năm của GAS trong 3 năm tới chỉ ở mức tối thiểu khoảng 1%.

CTCP Bọc ống dầu khí Việt Nam (HNX: PVB)

SSI Research kỳ vọng PVB sẽ giành được hợp đồng cung cấp dịch vụ bọc ống cho dự án Lô B. Đường ống bao gồm 295 km cho phần ngoài khơi và 102 km cho phần trên bờ. Dựa trên dự án lớn trước đó (đường ống Nam Côn Sơn 2 giai đoạn 2), SSI Research ước tính tổng doanh thu bọc ống đạt khoảng 2.000-2.500 tỷ đồng trong giai đoạn 2023-2025 (với giả định năm 2026 sẽ đón dòng khí đầu tiên). Theo đó, SSI Research ước tính PVB có thể ghi nhận khoản lợi nhuận ròng hàng năm từ 70-100 tỷ đồng trong giai đoạn 2024 và 2025 từ dự án này.

Trong giai đoạn trước (2013-2018), khi công ty được hưởng backlog lớn từ dự án Nam Côn Sơn 2 giai đoạn 2, cổ phiếu của công ty được giao dịch với P/E trong khoảng 6x-14x. Năm 2023, PVB đặt kế hoạch doanh thu đạt 190 tỷ đồng (+450% svck) và 2 tỷ đồng LNST (so với -13 tỷ đồng trong năm 2022), với kế hoạch này SSI Research cho rằng công ty chưa tính đến backlog tiềm năng từ dự án Lô B .

O.L
Cùng chuyên mục