Gạo Việt Nam xuất khẩu sang các nước Bắc Âu có giá kỷ lục 740 USD/tấn

29/04/2022 07:08 GMT+7
Việt Nam chỉ mới xuất khẩu gạo xay xát sang khu vực Bắc Âu nhưng với tốc độ tăng trưởng rất ấn tượng, trung bình 54%/năm trong giai đoạn 2016-2020.

Các nước Bắc Âu (Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy) là các nước không trồng lúa gạo. Do vậy, các nước này phải nhập khẩu hoàn toàn gạo cho tiêu dùng và sản xuất. Trong năm 2020, các nước Bắc Âu nhập khẩu 147.718 tấn gạo, trị giá 186,52 triệu USD, trong đó, kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam đạt 5,8 triệu USD, tương đương với 7.353 tấn, với giá trung bình là 740 USD/tấn.

Gạo Việt Nam xuất khẩu sang các nước Bắc Âu có giá kỷ lục 740 USD/tấn - Ảnh 1.

Gạo Việt Nam xuất khẩu sang các nước Bắc Âu có giá kỷ lục 740 USD/tấn.

Hiện nay, Việt Nam chỉ mới xuất khẩu gạo xay xát sang khu vực Bắc Âu. Tuy kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam vào Bắc Âu chưa nhiều, chỉ chiếm 3,1% thị phần nhập khẩu tại Bắc Âu, nhưng với tốc độ tăng trưởng rất ấn tượng, trung bình 54%/năm trong giai đoạn 2016-2020.

Trước năm 2019, Thụy Điển hầu như không nhập khẩu gạo Việt Nam. Từ năm 2019, với việc vận động, xúc tiến thương mại mặt hàng gạo của Thương vụ để chuẩn bị đón đầu Hiệp định EVFTA, kim ngạch nhập khẩu gạo của Thụy Điển từ Việt Nam đã có bước tăng trưởng đáng kể, từ vài chục đến hơn 100.000 USD đã lên đến hơn 1 triệu USD năm 2019 và 1,7 triệu USD năm 2020.

Xuất khẩu gạo Việt Nam sang Na Uy cũng tăng mạnh từ 1,8 triệu USD năm 2018 lên hơn 3,7 triệu USD năm 2020.

Nhập khẩu gạo của Đan Mạch từ Việt Nam không tăng trưởng mạnh như thị trường Thụy Điển và Na Uy nhưng cũng ở mức trung bình 8%/năm trong giai đoạn 5 năm 2016-2020, cao hơn mức tăng trưởng nhập khẩu gạo trung bình của thị trường này.

Theo Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, các nước Bắc Âu tiêu thụ rất ít gạo. Trong các nước Bắc Âu, Thụy Điển tiêu thụ gạo nhiều nhất. Theo thống kê của Tổ chức Lương thực thế giới, tiêu thụ gạo bình quân trên đầu người của Thụy Điển đạt mức thấp nhất là 1,31kg vào năm 1963, và mức cao nhất là 6,22kg vào năm 2008. Mức tiêu thụ hiện nay cũng chỉ vào khoảng 6kg/người/năm. Con số này ở Đan Mạch và Na Uy đều khoảng 5kg/người/năm. Mức tiêu thụ này thấp hơn rất nhiều so với bình quân của thế giới là 54kg.

Châu Âu không tự túc được hoàn toàn gạo. Khoảng 60% nhu cầu được đáp ứng bởi sản xuất trong khu vực, khiến nhu cầu nhập khẩu 1,8 triệu tấn gạo xay xát. Triển vọng Nông nghiệp của EU 2020-2030 dự kiến nhu cầu gạo nhập khẩu sẽ tăng cho đến năm 2030. Trong thập kỷ tới, nhập khẩu sẽ tăng khoảng 250.000 tấn.

Các nước Bắc Âu là các nước không trồng lúa gạo do vậy, các nước này gần như nhập khẩu hoàn toàn. Trong năm 2020, các nước Bắc Âu nhập khẩu 147.718 tấn gạo, trị giá 186,52 triệu USD, trong đó nhập khẩu từ các nước trong nội khối EU khoảng 99 triệu USD, chiếm khoảng 53% tổng kim ngạch nhập khẩu của các nước này.

Châu Âu chủ yếu sản xuất gạo Japonica (khoảng 75%), hầu hết được sản xuất và tiêu thụ ở Nam Âu. Châu Âu là nước xuất khẩu ròng gạo Japonica. Tuy nhiên, ở khu vực Bắc Âu, giống truyền thống châu Á Indica phổ biến hơn, ví dụ các loại gạo hạt dài và gạo thơm như Bastima và Jasmine.

Gạo xay xát là mặt hàng nhập khẩu chính: Gạo xát (trắng) và gạo xát vỏ (nâu) là những loại gạo quan trọng nhất để nhập khẩu vào Bắc Âu, kể cả khi nói đến các loại gạo đặc sản. Gạo xay xát có ưu điểm là nhẹ hơn, thuận tiện cho việc vận chuyển và ít bị nấm, mốc. Xay xát, hoặc loại bỏ cám, có thể là một quá trình gia tăng giá trị được thực hiện ở nước xuất xứ.

Gạo Việt Nam xuất khẩu sang các nước Bắc Âu có giá kỷ lục 740 USD/tấn - Ảnh 2.

Các nước Bắc Âu nhập khẩu 147.718 tấn, tái xuất đi các nước khác 9.714 tấn, còn lại tiêu thụ trong nước khoảng 138.000 tấn, theo số liệu năm 2020.

Các nước Bắc Âu chủ yếu nhập khẩu gạo xay xát. Vào năm 2020, tổng kim ngạch nhập khẩu gạo xay xát của các nước Bắc Âu là 159,11 triệu USD, chiếm 85,3% tổng kim ngạch nhập khẩu gạo của các nước này.

Gạo tấm là sản phẩm phụ của quá trình chế biến gạo. Nhiều người tiêu dùng Bắc Âu coi gạo tấm là gạo cấp thấp hơn, nhưng người tiêu dùng truyền thống hoặc châu Á đánh giá cao hơn vì đây là một loại gạo có giá cả phải chăng với đặc tính hấp thụ hương vị và nấu nhanh. Gạo tấm (không phải gạo đặc sản) cũng được sử dụng cho các sản phẩm được chế biến tiếp, chẳng hạn như ngũ cốc ăn sáng, thức ăn cho chăn nuôi, bia, tinh bột và bột mì. Gạo chưa qua chế biến (còn trấu) không được ưa chuộng trong thương mại.

Nhập khẩu gạo đặc sản từ các nước ngoài châu Âu ngày càng tăng: Các sản phẩm đặc biệt hấp dẫn đối với thị trường châu Âu nói chung và Bắc Âu nói riêng là gạo Ấn độ hạt dài đã xát hoặc xay, chẳng hạn như gạo Basmati.

Tăng cường giao thương với các nước đang phát triển: Gạo Indica là một mặt hàng điển hình có nguồn gốc ở các nước đang phát triển. Các loại gạo thơm và gạo màu thường không được sản xuất ở châu Âu và được nhập khẩu chủ yếu từ các nước châu Á. Việc nhập khẩu từ các nhà cung cấp ngoài châu Âu ngày càng tăng do nhu cầu về các loại gạo này ngày càng tăng. Các điều kiện thương mại thuận lợi giúp duy trì đà tăng trưởng này.

Cơ hội cho gạo hữu cơ và thương mại công bằng cũng đang tăng lên do người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến thực phẩm lành mạnh và bền vững. Các loại gạo đặc sản như gạo thơm basmati và jasmine, gạo risotto và gạo paella, và ở một mức độ nào đó là gạo màu, hiện được mua bán thông qua các kênh chính thống. Mức tiêu thụ của các giống cụ thể cao nhất ở các thị trường dân tộc (ví dụ gạo Việt Nam thường hay được bán ở cửa hàng thực phẩm Á châu, hoặc cửa hàng thực phẩm Việt Nam).

Trong phân khúc thực phẩm tốt cho sức khỏe, trọng tâm chính là các sản phẩm tinh khiết và không có thuốc trừ sâu. Điều này thường có nghĩa là đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng cao hơn so với các quy định pháp luật. Dư lượng thuốc trừ sâu là lý do chính để người tiêu dùng mua gạo hữu cơ. Gạo hữu cơ đang ngày càng tăng thị phần. Theo báo cáo FiBL & IFOAM Thế giới Nông nghiệp Hữu cơ, Liên minh châu Âu đã nhập khẩu 256.000 tấn gạo hữu cơ trong năm 2018, có nghĩa là 10,9% lượng gạo nhập khẩu được chứng nhận hữu cơ.




Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục