Không hề "dư dật vốn" trong ngân hàng, đừng kỳ vọng "rút" tiền tiết kiệm dồn sang chứng khoán

+ aA -
Huyền Anh
25/10/2025 14:55 GMT +7
TS Cấn Văn Lực, Chuyên giá Kinh tế trưởng BIDV nhấn mạnh, không hề có câu chuyện quá dư dật vốn trong hệ thống ngân hàng. Chúng ta không có kỳ vọng rằng tiền gửi của hệ thống dân cư sẽ dồn sang thị trường chứng khoán.

Theo ông Lực, tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng hiện nay đạt khoảng 15,7 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là “dân chúng ta đang quá nhiều tiền để rút sang đầu tư chứng khoán”.

“Trong tổng số đó, vốn gửi dân cư chỉ chiếm 44%, còn lại 56% là của tổ chức. Hơn nữa, tiền gửi là nguồn cho vay, và tổng tín dụng hiện đã đạt 17,7 triệu tỷ đồng, cao hơn khoảng 2 triệu tỷ đồng so với tổng tiền gửi”, ông nói.

Ông cũng lưu ý, so sánh trong vòng một năm (cuối tháng 7/2025 so với cùng kỳ 2024), tiền gửi tăng 15,5%, trong khi tín dụng chỉ tăng 6,6%, nhưng con số tuyệt đối của tín dụng cao hơn nhiều so với tiết kiệm. Vì vậy, khi tăng trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng tiền gửi, nghĩa là không hề có câu chuyện quá là dư dật vốn trong hệ thống ngân hàng.

"Cho nên, chúng ta không có kỳ vọng rằng tiền gửi của hệ thống dân cư sẽ dồn sang thị trường chứng khoán", ông Lực nhấn mạnh.

TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV.

TS. Cấn Văn Lực cho biết, Việt Nam đang xây dựng kịch bản phát triển giai đoạn 2026 – 2030, với mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm. Sau đó, giai đoạn 2031 – 2045, mục tiêu tăng trưởng phải khoảng 8%/năm, mới đạt được mục tiêu đến năm 2045 có ngưỡng thu nhập cao khoảng 23.000 USD/người.

“Để đạt được tốc độ tăng trưởng này, tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần đạt khoảng 40% GDP, tương đương mỗi năm 270 tỷ USD trong giai đoạn 2026 – 2030”, ông Lực nhấn mạnh.

Hiện nay, cấu trúc cung ứng vốn cho nền kinh tế vẫn lệch: tín dụng ngân hàng chiếm khoảng 50%, trong khi vốn huy động từ thị trường cổ phiếu chỉ 3%, trái phiếu doanh nghiệp khoảng 11% (trong đó một nửa là của ngân hàng).

Như vậy, vốn huy động qua cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 14% tổng vốn cho nền kinh tế. Ông Lực đề xuất nâng tỷ lệ này lên 25–27%, qua đó giảm tỷ trọng tín dụng ngân hàng xuống còn khoảng 40%.

“Nếu không mở rộng vai trò của thị trường vốn, đặc biệt là chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp, chúng ta sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu vốn khổng lồ của nền kinh tế trong thập kỷ tới”, ông nhấn mạnh.

Ông đề nghị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần có cơ chế thúc đẩy nhiều doanh nghiệp mới niêm yết hơn, đồng thời phát triển các quỹ đầu tư xanh và quỹ hưu trí tự nguyện.

“Suốt hơn 20 năm, khung pháp lý cho quỹ hưu trí tự nguyện gần như không thay đổi. Trong khi đó, các quỹ mở đang tăng trưởng khoảng 200%/năm, cần được khuyến khích mạnh hơn vì đây là kênh huy động vốn hiệu quả và bền vững”, ông Lực nói.

Ông cũng đề xuất phát triển trái phiếu xanh để tài trợ cho các công trình, dự án thân thiện môi trường, đồng thời xác định ba vai trò then chốt của hệ thống tài chính trong chuyển đổi xanh quốc gia bao gồm: Cung ứng vốn xanh cho nền kinh tế; Định hướng doanh nghiệp và nhà đầu tư theo tiêu chí xanh; Xanh hóa nội bộ trong chính các định chế tài chính.

Cũng theo TS Cấn Văn Lực, vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam hiện lệ thuộc quá lớn vào hai lĩnh vực ngân hàng và bất động sản, chiếm khoảng 40–45%, trong khi các ngành công nghệ, năng lượng, công nghiệp chế biến – chế tạo lại quá nhỏ.

“Cơ cấu như vậy là không bền vững, bởi hai lĩnh vực này biến động mạnh theo chu kỳ. Chúng ta cần khuyến khích doanh nghiệp công nghệ, năng lượng, công nghiệp cốt lõi lên sàn, đồng thời siết chặt tiêu chuẩn niêm yết đối với bất động sản", ông đề xuất.

Ông nhấn mạnh, Ủy ban Chứng khoán và Bộ Tài chính hoàn toàn có thẩm quyền điều chỉnh tiêu chí niêm yết theo hướng khuyến khích ngành xanh, công nghệ, đổi mới sáng tạo.

TS. Cấn Văn Lực cho rằng, một yếu tố quan trọng khác là chuẩn hóa báo cáo tài chính theo chuẩn mực quốc tế (IFRS). Ông đề nghị, từ năm tới, các doanh nghiệp niêm yết cần áp dụng bắt buộc IFRS để nâng cao chất lượng công bố thông tin và tính minh bạch.

Về thị trường phái sinh, ông đánh giá Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể sau 8 năm. Tuy nhiên, phái sinh tài chính và phái sinh hàng hóa hiện vẫn tách rời, cần được kết nối chặt chẽ hơn.

“Bộ Công Thương đang trình Chính phủ nghị định nâng cấp thị trường hàng hóa. Vấn đề là phải có cơ chế huy động vốn phù hợp, trong đó thị trường vốn và phái sinh tài chính có thể hỗ trợ lẫn nhau,” ông nói.

Cuối cùng, ông Lực nhấn mạnh vai trò an ninh mạng và trí tuệ nhân tạo (AI) trong lĩnh vực tài chính – chứng khoán.

“Tội phạm tài chính ngày càng gia tăng, riêng lĩnh vực ngân hàng chiếm tới 65–70% các vụ việc. Các công ty chứng khoán, ngân hàng phải đặc biệt chú trọng bảo mật dữ liệu và an toàn hệ thống, nếu không muốn rủi ro lan rộng,” ông cảnh báo.