Lộ diện bức tranh xuất khẩu của Việt Nam giữa "cơn địa chấn" thuế quan
Theo HSBC, Việt Nam - quốc gia có thặng dư thương mại song phương lớn thứ ba với Mỹ, được xem là nước có rủi ro thuế quan cao nhất trong ASEAN. Đó là lý do tại sao Việt Nam đã chủ động làm việc với chính quyền Trump, thậm chí ngay cả trước khi ông chính thức nhậm chức tổng thống.
Cơn bão thuế quan đã gây chấn động thị trường khi Việt Nam phải đối mặt với mức thuế 46% từ phía Mỹ hồi tháng 4. Tuy nhiên, sau nhiều vòng đàm phán, Việt Nam hiện đang nằm cùng nhóm thuế 19-20% giống như các thị trường mới nổi khác trong ASEAN, khiến tất cả đều quay trở về vạch xuất phát.
Nhưng đâu là tác động ban đầu của thuế quan đối với nền kinh tế Việt Nam? Nhân dịp năm 2026 đang đến gần, nhóm HSBC mong muốn cùng đánh giá một số chỉ số quan trọng.
Trước hết, liệu thuế quan có làm giảm động lực xuất khẩu của các nhà xuất khẩu Việt Nam? Câu trả lời không chỉ đơn thuần là “không”. Tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam thậm chí còn nhanh hơn, bình quân năm 2025 (tới hiện tại) đạt mức 28% so với cùng kỳ năm trước (Biểu đồ 1).

Theo HSBC, đúng là mức tăng
này đạt được một phần nhờ hoạt động đẩy nhanh đơn hàng đặt trước (frontloading),
đặc biệt là trong Quý II khi các doanh nghiệp xuất khẩu đổ xô xuất khẩu hàng
hóa, nhưng tác động của xu hướng này chưa giảm nhanh như dự đoán ban đầu.
Trong khi hầu hết các nước trong khu vực đều ghi nhận sự tiết chế đáng kể trong hoạt động xuất khẩu sang Mỹ thì tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vẫn duy trì ở mức gần 30% so với cùng kỳ năm trước tính theo trung bình động 3 tháng. Thái Lan cũng là quốc gia bất ngờ tương đối bền bỉ trong việc xuất khẩu sang Mỹ.
Giữa bối cảnh thuế quan do Mỹ áp đặt, các nhà hoạch định chính sách ASEAN đã nỗ lực đẩy nhanh các hiệp định thương mại tự do nhằm tìm kiếm các cơ hội thương mại đa dạng hơn ở những thị trường khác. Tuy nhiên, đây là một bài toán giữa lợi ích dài hạn và thiệt hại ngắn hạn, vì Mỹ rõ ràng là một thị trường xuất khẩu trọng yếu khó có thể bỏ qua trong ngắn hạn.
Đặc biệt, Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Mỹ với vai trò là thị trường tiêu dùng cuối cùng. Hiện nay, mức độ phụ thuộc thậm chí còn cao hơn, khi 32% hàng xuất khẩu của Việt Nam được xuất sang Mỹ (Biểu đồ 1). Chúng tôi đã từng chỉ ra những thách thức trong việc đa dạng hóa thương mại, lấy Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA) làm ví dụ.
Nhưng Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Mỹ không chỉ trong lĩnh vực xuất khẩu mà còn ở cán cân thương mại. Mỹ luôn là nguồn đóng góp chủ yếu cho thặng dư thương mại của Việt Nam. Sau khi thặng dư thương mại hàng tháng giảm gần một nửa xuống còn 1,3 tỷ USD trong nửa đầu năm 2025 so với năm 2024, con số này đã tăng lên 3 tỷ USD trong quý III năm 2025 (Biểu đồ 3). Phần lớn sự bùng nổ thương mại với Mỹ đến từ lượng hàng điện tử xuất khẩu được duy trì ổn định ở mức cao.

Tuy nhiên, xu hướng đã thay đổi khá nhanh và xuất khẩu điện tử đã ghi nhận mức tăng trưởng theo cấp số nhân. Xét theo tháng, tỷ trọng hàng điện tử từ mức từng chỉ bằng khoảng 1/7 so với nhóm hàng công nghiệp sản xuất nhẹ vào năm 2013, đã tăng lên gần tương đương vào năm 2024 (Biểu đồ 4). Từ đầu năm 2025, nhóm hàng điện tử đã vượt nhóm hàng công nghiệp sản xuất nhẹ để trở thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu sang thị trường Mỹ.
Điều này phù hợp với sự tiến bộ của Việt Nam trong việc nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị công nghệ. Kể từ khi căng thẳng thương mại Mỹ - Trung gia tăng, Việt Nam đã gia tăng vị thế trong khâu lắp ráp hoàn thiện đồ điện tử, chuyên về các sản phẩm điện tử tiêu dùng hoàn chỉnh. Nhờ sự đầu tư liên tục của Samsung từ sớm vào năm 2007, Việt Nam đã chuyển mình thành một trung tâm sản xuất lớn, đảm nhận một nửa sản lượng điện thoại thông minh của Samsung.
Mặc dù vẫn chưa qua được Trung Quốc, thị phần xuất khẩu các ngành hàng liên quan đến điện thoại của Việt Nam đã tăng mạnh từ mức gần như bằng không trong chưa đầy 15 năm, dù gần đây có chút chững lại (Biểu đồ 5). Bên cạnh điện tử tiêu dùng, vai trò của Việt Nam cũng ngày càng trở nên quan trọng hơn trong sản xuất chip xử lý (ICs) – một phân khúc có giá trị gia tăng cao hơn so với chỉ lắp ráp điện tử. Điều này nhờ vào đầu tư của Intel, công ty sản xuất 90% chip xử lý toàn cầu.
Bên cạnh thương mại, một chỉ số khác đáng chú ý là tình hình FDI, vì Việt Nam đã được hưởng lợi rất nhiều từ sự bùng nổ xuất khẩu do FDI thúc đẩy. Mặc dù FDI ghi nhận mức giảm 8% so với cùng kỳ từ đầu năm 2025 cho đến nay, quy mô FDI vẫn ở mức lớn đáng kể. Đặc biệt, dòng vốn FDI vào lĩnh vực sản xuất hiện xấp xỉ mức trung bình trước đại dịch, mặc dù giảm so với mức cao của cùng kỳ năm ngoái. Điều thú vị là cơ cấu FDI cho thấy bức tranh rõ nét về sự dịch chuyển. FDI từ Hàn Quốc giảm mạnh tới 72% so với cùng kỳ năm trước, nhưng dòng vốn từ Trung Quốc đại lục và Mỹ đã tăng đáng kể để bù đắp một phần chon sự sụt giảm này (Biểu đồ 6).
Điều này đặt ra câu hỏi: tại sao xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ lại mạnh mẽ hơn các quốc gia trong khu vực? Để trả lời câu hỏi này, điều quan trọng là phải phân tích cơ cấu hàng hóa. Năm 2013, 60% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ thuộc các ngành công nghiệp sản xuất nhẹ, như dệt may, giày dép và sản phẩm đồ chơi. Khi đó, các sản phẩm điện tử chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn là 13%.
Tuy nhiên, xu hướng đã thay đổi khá nhanh và xuất khẩu điện tử đã ghi nhận mức tăng trưởng theo cấp số nhân. Xét theo tháng, tỷ trọng hàng điện tử từ mức từng chỉ bằng khoảng 1/7 so với nhóm hàng công nghiệp sản xuất nhẹ vào năm 2013, đã tăng lên gần tương đương vào năm 2024 (Biểu đồ 4). Từ đầu năm 2025, nhóm hàng điện tử đã vượt nhóm hàng công nghiệp sản xuất nhẹ để trở thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu sang thị trường Mỹ.
Điều này phù hợp với sự tiến bộ của Việt Nam trong việc nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị công nghệ. Kể từ khi căng thẳng thương mại Mỹ - Trung gia tăng, Việt Nam đã gia tăng vị thế trong khâu lắp ráp hoàn thiện đồ điện tử, chuyên về các sản phẩm điện tử tiêu dùng hoàn chỉnh. Nhờ sự đầu tư liên tục của Samsung từ sớm vào năm 2007, Việt Nam đã chuyển mình thành một trung tâm sản xuất lớn, đảm nhận một nửa sản lượng điện thoại thông minh của Samsung.
Mặc dù vẫn chưa qua được Trung Quốc, thị phần xuất khẩu các ngành hàng liên quan đến điện thoại của Việt Nam đã tăng mạnh từ mức gần như bằng không trong chưa đầy 15 năm, dù gần đây có chút chững lại (Biểu đồ 5). Bên cạnh điện tử tiêu dùng, vai trò của Việt Nam cũng ngày càng trở nên quan trọng hơn trong sản xuất chip xử lý (ICs) – một phân khúc có giá trị gia tăng cao hơn so với chỉ lắp ráp điện tử. Điều này nhờ vào đầu tư của Intel, công ty sản xuất 90% chip xử lý toàn cầu.
Bên cạnh thương mại, một chỉ số khác đáng chú ý là tình hình FDI, vì Việt Nam đã được hưởng lợi rất nhiều từ sự bùng nổ xuất khẩu do FDI thúc đẩy. Mặc dù FDI ghi nhận mức giảm 8% so với cùng kỳ từ đầu năm 2025 cho đến nay, quy mô FDI vẫn ở mức lớn đáng kể.
Đặc biệt, dòng vốn FDI vào lĩnh vực sản xuất hiện xấp xỉ mức trung bình trước đại dịch, mặc dù giảm so với mức cao của cùng kỳ năm ngoái. Điều thú vị là cơ cấu FDI cho thấy bức tranh rõ nét về sự dịch chuyển. FDI từ Hàn Quốc giảm mạnh tới 72% so với cùng kỳ năm trước, nhưng dòng vốn từ Trung Quốc đại lục và Mỹ đã tăng đáng kể để bù đắp một phần chon sự sụt giảm này (Biểu đồ 6).

Nhìn chung, dường như tác động của thuế quan đối với nền kinh tế Việt Nam nhẹ hơn so với những quan ngại ban đầu. "Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần lưu ý đến những rủi ro thương mại tiềm ẩn và có lẽ vẫn còn quá sớm để đánh giá mức ảnh hưởng. Chúng ta cũng cần nhớ rằng phán quyết về thuế trung chuyển 40% và thuế theo ngành đối với bán dẫn vẫn chưa được đưa ra", nhóm HSBC cho biết.





















