Lộ diện 6 dấu hiệu rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu
Đó là nhận định của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đưa ra trong báo cáo "Rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu - sức chống chịu của Việt Nam và kiến nghị" vừa được công bố.
Theo nhìn nhận của nhóm tác giả, so với thời điểm tháng 3/2020 (làn sóng đầu tiên của dịch Covid-19), mặc dù chỉ số bất ổn toàn cầu (WUI) và chỉ số rủi ro (VIX), có giảm hơn song vẫn còn ở mức cao, khiến mối quan ngại về rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu hầu chưa có dấu hiệu giảm mà thậm chí còn được các tổ chức quốc tế như WB, IMF khuyến cáo gia tăng gần đây.
6 dấu hiệu rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu được ông Lực và nhóm tác giả đề cập bao gồm:
Thứ nhất, nguy cơ cao của "bom nợ", đặc biệt là nợ của khu vực doanh nghiệp. Theo WB (2020), thế giới đang trong "làn sóng nợ thứ 4" bắt đầu từ năm 2010 với "mức tăng nhiều nhất và nhanh nhất" trong vòng 50 năm.
Làn sóng nợ toàn cầu lại được kích hoạt bởi các gói hỗ trợ khổng lồ để khắc phục ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, ước tính lên tới 5-20% GDP toàn cầu (bình quân khoảng 12%GDP). Con số này cao hơn 2-5 lần các gói kích thích giai đoạn 2008-2009.
Theo đó, tổng nợ toàn cầu có thể xác lập kỷ lục mới tương đương 350% GDP năm 2020, cao hơn 150 điểm % so với năm 2009.
Trong bối cảnh thu ngân sách sụt giảm do khó khăn của nền kinh tế, nhu cầu trang trải các khoản vay cũ, gia tăng hỗ trợ hồi phục kinh tế vẫn tiếp tục gia tăng, nợ công và thâm hụt ngân sách dự báo sẽ còn ở mức cao ít nhất đến năm 2025. Theo IMF, dự kiến thâm hụt ngân sách và nợ công toàn cầu ở mức 12,7% GDP và gần 100% GDP.
So với thời điểm bùng phát làn sóng dịch thứ nhất, mức thâm hụt ngân sách/GDP và nợ công/GDP tăng 3 điểm %. Trong đó các nước phát triển có mức nợ công và thâm hụt ngân sách tăng cao hơn, song rủi ro của các nước mới nổi và thu nhập thấp lại ở mức cao hơn vì những nước này có tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào vay nợ và tài trợ trong khi khả năng tiếp cận tài chính ngày càng hạn chế và nguồn tài chính quốc tế không quá dồi dào.
Song đáng lo ngại hơn là sự "phình to" của bong bóng nợ doanh nghiệp (DN) và hộ gia đình toàn cầu (năm 2019 đã gấp 2,5 lần nợ công và ước tăng 12% năm 2020 – mức tăng cao nhất trong 5 năm). Đáng chú ý nhất là nợ DN của Mỹ và Trung Quốc.
Trong đó, nợ DN của Mỹ cao nhất thế giới, khoảng 10.500 tỷ USD – tăng gấp 30 lần so với năm 1970 và chiếm tới 50% nợ DN toàn cầu (theo BofA Global Research, tháng 9/2020). Trong khi nợ DN của Trung Quốc đã lên đến 256%GDP (gấp 4 lần nợ công).
Với vai trò chủ nợ của thế giới, Trung Quốc đang là tâm điểm rủi ro nợ khu vực DN, hộ gia đình và cả khu vực ngân hàng; nếu rủi ro vỡ nợ xảy ra với Trung Quốc hoặc các nước vay nợ thu nhập thấp, hậu quả sẽ khôn lường.
Thứ hai, nguy cơ cao về sự đảo chiều và giảm sút dòng vốn ngoại. Rủi ro đảo chiều và giảm sút các dòng vốn đầu tư nước ngoài (đặc biệt là dòng vốn gián tiếp – FPI ngắn hạn) đã từng dẫn đến khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997-1998 đang có nguy cơ xảy ra nhanh hơn và mạnh hơn.
Theo Viện Tài chính quốc tế (IIF) và Bloomberg, trong 7 tháng đầu năm 2020, lượng vốn FPI rút ra khỏi các thị trường chứng khoán toàn cầu lên tới gần 90 tỷ USD.
Mặc dù dòng vốn FPI đã tăng trở lại ở một số thị trường như Trung Quốc, Ấn Độ, EU, Mỹ trong 3 tháng 8,9,10, song tính chung trong 10 tháng đầu năm 2020, các thị trường mới nổi vẫn chứng kiến lượng vốn rút ra lớn, đặc biệt là Indonesia (-31 tỷ USD), Hàn Quốc (-23,4 tỷ USD), Đài Loan (-21,3 tỷ USD), Brazil (-18,5 tỷ USD), Thái Lan (-9,1 tỷ USD), Nam Phi (-6,9 tỷ USD), Thổ Nhĩ Kỳ (-5,5 tỷ USD), Malaysia (-5,3 tỷ USD),...
Theo dự báo của IIF, kể cả trường hợp dòng vốn FPI này quay trở lại thì tổng vốn FPI ròng rút ra khỏi các nước mới nổi năm 2020 vẫn ở mức cao (-40 tỷ USD). Cùng với đó, theo WB và Citibank (tháng 6/2020), vốn FDI và kiều hối toàn cầu dự báo giảm sâu lần lượt 25% và 20%, giảm mạnh nhất trong vòng 6 năm.
Nhóm có nguy cơ cao về vấn đề này là Trung Đông và Bắc Phi, Châu Âu và Trung Á, đặc biệt các quốc gia có thâm hụt vãng lai lớn, nợ công cao và dự trữ ngoại hối sụt giảm.
Thứ ba, nguy cơ sụt giảm của thị trường chứng khoán (TTCK) và bất động sản (BĐS) vẫn tiềm ẩn do ảnh hưởng của suy thoái nền kinh tế thực. Theo nhóm tác giả BIDV, ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế khiến nhiều TTCK giảm mạnh trên 20% và rơi vào "thị trường gấu" trong 10 tháng đầu năm 2020.
Cùng với đó, thị trường BĐS cũng giảm từ 6-15% so với cùng kỳ năm trước - mức giảm mạnh nhất kể từ năm 2014, ở nhiều nước như Mỹ, Đức, Canada, Tây Ban Nha, Pháp, Bỉ....; đầu tư BĐS toàn cầu đã giảm 20-30% trong 9 tháng đầu năm 2020.
Thứ tư, nguy cơ giảm giá của các đồng tiền so với đồng tiền mạnh (USD) vẫn thường trực dù cơ chế điều hành tỷ giá của các nước ngày càng linh hoạt
Tính đến hết 15/10/2020, đồng USD đã giảm giá 3,07% so với đầu năm và ở mức thấp nhất trong 2 năm qua, song đồng tiền của nhiều nước mới nổi vẫn ghi nhận mức mất giá khá mạnh so với USD (các đồng tiền Châu Mỹ La tinh giảm mạnh 20-25%, các đồng tiền Châu Á cũng giảm trung bình 3-5%.Với quyết định nới lỏng định lượng và duy trì lãi suất thấp của Fed, khả năng đồng USD sẽ còn suy yếu, ít nhất là đến giữa hoặc hết năm 2021.
Tính đến xu hướng giảm giá của USD và sự gia tăng sức mạnh của một số đồng tiền GBP, JPY, EUR…, vai trò của đồng USD vẫn chưa thể thay thế và nguy cơ mất giá của các đồng tiền được neo giá trị vào đồng USD vẫn thường trực bởi áp lực thâm hụt cán cân vãng lai, rủi ro nợ và sự sụt giảm nguồn cung quan trọng như kiều hối, đầu tư, du lịch, tài trợ quốc tế....
Trong khi đó, lợi ích của việc giảm giá đồng tiền với xuất khẩu dường như khó hiện thực do ảnh hưởng nặng nề của Covid-19 dù thương mại toàn cầu đang có dấu hiệu phục hồi (theo WTO tháng 9/2020). Mặc dù vậy, rủi ro mất giá đồng tiền này là ở mức thấp và không đáng quan ngại.
Thứ năm, nguy cơ gia tăng nợ xấu, giảm thu nhập và những thách thức mới với hệ thống ngân hàng toàn cầu.
Thứ sáu, nguy cơ do thể chế không theo kịp sự phát triển của thị trường tài chính; giải pháp ứng phó dịch bệnh và cơ chế phối hợp kém hiệu quả
Kể từ sau khủng hoảng tài chính giai đoạn 2008-2009, các nước đã tăng cường hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, điều hành tỷ giá linh hoạt hơn; tăng tính minh bạch và hiệu quả của chính sách tài khóa và tiền tệ, thực hiện tái cơ cấu thị trường tài chính; qua đó đã góp phần tăng khả năng chống chịu của hệ thống tài chính toàn cầu. Bối cảnh năm 2020 đặt ra nhiều thách thức khi mà thể chế chưa theo kịp sự phát triển mạnh mẽ của CMCN 4.0 và sự phát triển của kinh tế số và tài chính – tiền tệ số, đồng thời sự xuất hiện của các bất ổn mới chưa từng có trong lịch sử (như sự mất dần kết nối giữa thị trường tài chính và nền kinh tế thực; rủi ro nợ của khu vực DN, hộ gia đình và tổ chức tài chính phi ngân hàng…).
TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả BIDV nhấn mạnh, các giải pháp, gói hỗ trợ và sự nới lỏng các điều kiện tài chính toàn cầu (đặc biệt từ quý 2/2020) được kỳ vọng sẽ giúp hồi phục nền kinh tế và thị trường tài chính do ảnh hưởng của dịch Covid-19.
Tuy nhiên, cũng có thể dẫn tới hệ lụy tiêu cực hơn nếu không hiệu quả, như rủi ro bong bóng tài sản và lạm phát (do bơm nhiều tiền), rủi ro nợ xấu tăng (do hạ chuẩn cho vay hoặc đảo nợ và sức khỏe tài chính của bên vay yếu đi)…
Thêm vào đó, sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu, ưu tiên chính sách và phối hợp kém hiệu quả có thể khiến nền kinh tế và thị trường tài chính toàn cầu rơi vào vòng xoáy rủi ro mới trong thời gian tới.