Thái Lan giành lại vị trí nhà xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới từ Việt Nam

13/09/2022 15:20 GMT+7
Chính phủ Thái Lan tin tưởng sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu 7,5 triệu tấn gạo đã đề ra trong năm 2022 và giành lại vị trí nhà xuất khẩu gạo lớn thứ 02 thế giới từ Việt Nam.

Xuất khẩu gạo Thái Lan tăng trưởng kỷ lục, soán ngôi thứ 02 của Việt Nam

Thương vụ Việt Nam tại Thái Lan cho biết, trong 07 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu gạo của nước này đạt 4,75 triệu tấn, tăng kỷ lục 53% so với cùng kỳ năm ngoái. Chính phủ Thái Lan tin tưởng sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu 7,5 triệu tấn gạo đã đề ra trong năm 2022 và sẽ giành lại vị trí nhà xuất khẩu gạo lớn thứ 02 thế giới từ Việt Nam. Căn cứ theo số liệu xuất khẩu 07 tháng đầu năm 2022, Thái Lan hiện xếp vị trí thứ 02 sau Ấn Độ (11,23 triệu tấn) và vượt Việt Nam (4,25 triệu tấn), Pakistan (2,47 triệu tấn) và Mỹ (1,49 triệu tấn).

Nguyên nhân thúc đẩy xuất khẩu gạo của Thái Lan bao gồm đồng Bạt giảm giá khiến giá gạo Thái Lan cạnh tranh hơn so với các quốc gia láng giềng như Việt Nam, Campuchia; nhu cầu gạo Thái Lan tăng cao đặc biệt là Irag – thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Thái Lan trong 07 tháng đầu năm 2022 đạt mức trung bình 100.000 tấn. Nhóm các thị trường lớn khác gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Philipines; xung đột Ukraine-Nga cũng giúp tăng nhu cầu gạo Thái Lan do các quốc gia chuyển từ nhập khẩu lúa mì và ngô sang gạo phục vụ ngành công nghiệp thức ăn gia súc.

Thái Lan giành lại vị trí nhà xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới từ Việt Nam - Ảnh 1.

Hôm nay 13/9, giá lúa gạo tại thị trường trong nước duy trì ổn định so với hôm qua. Nhà máy và thương lái giao dịch lúa Thu Đông nhiều, thị trường sôi động.

Trong khi đó, thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, 7 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo của ta đạt hơn 4 triệu tấn, tương đương 2 tỷ USD, tăng 17% về lượng và tăng 6% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2021. 8 tháng đầu năm nay, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt lần lượt 4,73 triệu tấn và 2,3 tỷ USD, tăng 18,6% về khối lượng và 8,1% về giá trị so với cùng kỳ 2021.

Sản lượng tăng tốt nhưng giá gạo xuất khẩu liên tục đi xuống. Cụ thể, giá gạo 5% tấm của Việt Nam trong tháng 8 ở mức 390-393 USD/tấn, giảm 25 USD so với tháng trước và là đợt giảm lần thứ 4 liên tiếp. Hiện giá gạo Việt Nam thấp hơn Thái Lan do nhu cầu yếu và nguồn cung dồi dào từ thu hoạch vụ Hè Thu. Giá gạo Thái Lan tăng 4 USD/tấn trong tháng 8, còn gạo Ấn Độ tăng 1 USD/tấn.

Liên tục giảm nên giá gạo xuất khẩu bình quân 8 tháng của Việt Nam ước đạt 487 USD/tấn, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm ngoái.

Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 48,6% trong tổng lượng xuất khẩu và chiếm 46,4% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt 1,98 triệu tấn, tương đương 924,88 triệu USD, tăng tới gần 67% về lượng, tăng 40% về kim ngạch nhưng giảm 10,9% về giá.

Tiếp sau đó là thị trường Trung Quốc chiếm trên 11,4% trong tổng lượng và chiếm 12,2% trong tổng kim ngạch, đạt 466.225 tấn, tương đương 242,74 triệu USD, giảm 28% cả về lượng và kim ngạch; giá giảm nhẹ 1% so với cùng kỳ năm 2021.

Hôm nay 13/9, giá lúa gạo tại thị trường trong nước duy trì ổn định so với hôm qua. Nhà máy và thương lái giao dịch lúa Thu Đông nhiều, thị trường sôi động.

Cụ thể: Giá lúa gạo hôm nay 13/9 tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long duy trì ổn định. Hiện lúa IR 504 đang được thương lái thu mua ở mức 5.400 – 5.600 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 5.600 – 5.800 đồng/kg; Nàng hoa 9 duy trì ở mức 5.600 – 5.800 đồng/kg; lúa OM 5451 ở mức 5.500 – 5.600 đồng/kg; OM 18 5.700 – 5.900 đồng/kg; nếp An Giang (tươi) 5.900 – 6.100 đồng/kg; nếp Long An (tươi) 6.200 – 6.500 đồng/kg; lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg; nếp An Giang khô 7.500 – 7.600 đồng/kg; nếp Long An khô 7.700 đồng/kg.

Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm đồng loạt tăng. Cụ thể, giá gạo nguyên liệu IR 504 đang ở mức 8.150 – 8.250 đồng/kg, tăng 200 – 300 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 giữ ở mức 8.700 – 8.800 đồng/kg, tăng 200 – 300 đồng/kg. Tương tự, giá mặt hàng phụ phẩm cũng tăng nhẹ. Hiện giá tấm ở mức 8.350 – 8.450 đồng/kg, tăng 50 – 150 đồng/kg, trong khi đó, giá cám khô giữ ổn định ở mức 7.600 – 7.700 đồng/kg.

Theo các thương lái, đầu tuần giá lúa các loại đồng loạt tăng do nhu cầu mua khá hơn tuần trước. Lúa Japonica hút hàng, giá lúa và gạo đồng loạt tăng 200 – 400 đồng/kg so với tuần trước. Nhà máy và thương lái giao dịch lúa thu đông nhiều, giá lúa các loại có xu hướng tăng.

Tại chợ lẻ, giá gạo thường 11.500 đồng/kg – 12.500 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 15.000 – 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 14.000 đồng/kg; nếp ruột 14.000 – 15.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg; Gạo thơm thái hạt dài 18.000 – 19.000 đồng/kg; Gạo Hương Lài 19.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg; Nàng Hoa 17.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 20.000 đồng/kg; Cám 7.000 – 8.000 đồng/kg.

Trên thị trường thế giới, giá chào bán gạo xuất khẩu của ta tiếp đà đi ngang. Hiện giá gạo 5% tấm ở mức 393 USD/tấn; gạo 25% tấm 378 USD/tấn, gạo 100% tấm 383 USD/tấn.

Mới đây, Ấn Độ đã ban hành quyết định cấm xuất khẩu gạo tấm, đồng thời áp thuế xuất khẩu 20% đối với một số loại thóc, gạo. Động thái này được cho là sẽ tác động đến giá gạo thế giới bởi quốc gia này hiện chiếm hơn 40% lượng gạo xuất khẩu toàn cầu.

Tại Việt Nam, sau khi thông tin Ấn Độ siết nguồn xuất khẩu, một số doanh nghiệp gạo đang tạm ngừng giao dịch để theo dõi biến động mới của thị trường bởi giá gạo được cho là sẽ vào đợt tăng mới.

Việc Ấn Độ hạn chế xuất khẩu sẽ khiến nguồn cung gạo thế giới sụt giảm. Điều này thúc đẩy nhu cầu tìm kiếm nguồn thay thế tăng cao, đồng nghĩa với việc giá gạo sẽ được nâng lên bởi nguồn cung khan hiếm. Và Việt Nam là một trong những quốc gia được cho là sẽ hưởng lợi trong bối cảnh này.

Doanh nghiệp xuất khẩu gạo cho biết, giá gạo trong nước đang tăng 200-300 đồng/kg đối với gạo trắng nên các doanh nghiệp xuất khẩu tranh thủ mua vào để giao hàng cho các đơn hàng đã ký trước đó.

Với đơn hàng gạo mới, hiện doanh nghiệp đang tạm ngưng ký thêm các hợp đồng gạo trắng và tấm do giá gạo đang lên. Khả năng trong 5-10 ngày tới, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam chào bán sẽ tăng thêm 15-20 USD/tấn.

Trước quyết định của Ấn Độ, gạo 5% tấm của Myanmar cũng đang được báo giá khoảng 390- 395 USD/tấn. Tại Ấn Độ, giá gạo trắng 5% tấm được báo ở mức 348 USD/tấn.

Giá gạo Myanmar cũng đã tăng 50 USD/tấn trong khi các nhà cung cấp ở Thái Lan và Việt Nam cũng sẽ báo giá cao hơn.

Theo doanh nghiệp xuất khẩu gạo, khi giá gạo thế giới tăng, gạo Việt Nam sẽ hưởng lợi một phần trong đợt biến động giá lần này.

Kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam cả năm nay sẽ đạt khoảng 3,2 - 3,3 tỷ USD

Các doanh nghiệp cho rằng, nếu không có những bất thường về thời tiết, dịch bệnh, Việt Nam đủ lượng gạo khoảng 6,5-6,7 triệu tấn để xuất khẩu và dự kiến kim ngạch xuất khẩu gạo cả năm nay sẽ đạt khoảng 3,2 - 3,3 tỷ USD.

Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) cho biết, đến thời điểm hiện tại, ngành trồng trọt vẫn đảm bảo được kế hoạch sản xuất, với gieo trồng khoảng 7,24 triệu ha, sản lượng trên 43 triệu tấn thóc. Nếu không có bất thường thời tiết, dịch bệnh, Việt Nam hoàn toàn có đủ sản lượng thóc để đảm bảo xuất khẩu gạo từ 6,5 – 6,7 triệu tấn. Tuy nhiên, giá gạo xuất khẩu thế nào còn phụ thuộc vào thị trường thế giới.

Thái Lan giành lại vị trí nhà xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới từ Việt Nam - Ảnh 2.

Việt Nam đủ lượng gạo khoảng 6,5-6,7 triệu tấn để xuất khẩu và dự kiến kim ngạch xuất khẩu gạo cả năm nay sẽ đạt khoảng 3,2 - 3,3 tỷ USD.

Tại thời điểm này, theo số liệu của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam đang có khoảng 3,9 triệu ha đất trồng lúa. Theo Nghị quyết của Quốc hội cũng như các kết luận của trung ương, sẽ giữ 3,5 triệu ha đất trồng lúa đến năm 2030. Do vậy, từ nay đến năm 2030 Việt Nam có thể chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất công nghiệp hay chuyển đổi sang các cây trồng khác khoảng 400.000 ha. Việc chuyển đổi này cần có quá trình. Đây là sự chuyển đổi linh hoạt, hiệu quả để ổn định được ngành nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực cũng như xuất khẩu.

Về Đề án phát triển 1 triệu ha lúa chất lượng cao, Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) cho biết, 1 triệu ha đất trồng lúa chất lượng cao này không chỉ đơn giản là giống lúa chất lượng cao mà trong Đề án cần đề xuất các chính sách nhằm thu hút các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, chế biến xuất khẩu gạo đầu tư từ kho chứa, chế biến, logistics… nhằm tạo ra hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, phải tận dụng các phế phụ phẩm để tạo ra sản phẩm công nghệ cao, chế biến sâu từ gạo; có các cơ chế, chính sách hỗ trợ cho người trồng lúa trong tổ chức, đầu tư sản xuất.

Cục Trồng trọt đang xin ý kiến Bộ trưởng Bộ NN&PTNT trong Đề án này tập trung xây dựng một số chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo tập trung cùng với nông dân phát triển đa dạng hóa ngành nghề nông nghiệp, nâng cao các sản phẩm nông nghiệp, xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam, chứ không hiểu đơn thuần là 1 triệu ha giống trồng lúa thơm, chất lượng cao.

Các chuyên gia nhận định thời tiết khắc nghiệt ở một số quốc gia sản xuất gạo lớn trên thế giới, trong đó có Ấn Độ, Trung Quốc và Pakistan, đang đe dọa sản lượng gạo toàn cầu trong năm 2022, từ đó ảnh hưởng đến hơn 2 tỷ người ở châu Á đang xem gạo là loại lương thực chính.

Trong bối cảnh giá lương thực tăng vọt trong năm nay, giá gạo vẫn được duy trì ở mức dễ chịu do sản lượng thu hoạch dồi dào 4 năm trước đó. Dù vậy, sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó có chi phí phân bón cao sau khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra, đợt nắng hạn kỷ lục ở Trung Quốc, lượng mưa thấp ở Ấn Độ và lũ lụt ở Pakistan đang đe dọa sản lượng gạo và đẩy giá lên cao.

Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (FAO) cho biết hơn 90% lượng gạo trên thế giới được sản xuất và tiêu thụ ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong khi đó, báo cáo được Bộ Nông nghiệp Mỹ công bố mới đây cho thấy, nguồn cung gạo toàn cầu dự kiến giảm 4,1 triệu tấn còn 697,3 triệu tấn trong vụ mùa 2022-2023, chủ yếu do sản lượng giảm ở Bangladesh và Ấn Độ.

Các doanh nghiệp xuất khẩu đều nhận định rằng, nhu cầu thị trường trong những tháng cuối năm vẫn tốt. Thêm vào đó, giá xuất khẩu sẽ tiếp tục giữ vững ở mức cao, thậm chí có thể còn tăng do ảnh hưởng xung đột Nga-Ukraine kéo theo giá các loại ngũ cốc và lương thực cao. Những yếu tố này được đánh giá có lợi cho việc xuất khẩu gạo của Việt Nam.

Nửa đầu năm 2022 mặc dù về cơ bản ổn định song vẫn bộc lộ một số yếu tố khó khăn tiềm ẩn liên quan đến giá cước vận tải biển cao, giá cả đầu vào sản xuất lúa gạo cao cũng như tình hình xung đột chính trị trên thế giới tác động đến giá các mặt hàng lương thực khác. Do vậy, để đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu gạo, Bộ Công Thương đã và đang theo sát tình hình thị trường, nhằm đưa ra những khuyến nghị cần thiết.

Cùng với đó, Bộ Công Thương đề nghị, VFA và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần tiếp tục đảm bảo việc thu mua lúa gạo cho nông dân, không để lúa gạo tắc đầu ra sau thu hoạch. Đặc biệt, doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng gạo, đảm bảo các yêu cầu về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kiểm dịch thực vật, truy xuất nguồn gốc để tận dụng tối đa ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự do.

Hiện tại, các doanh nghiệp đang tận dụng tối đa việc nhu cầu tăng cao từ thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu gạo. Doanh nghiệp xuất khẩu gạo cho biết, nhu cầu nhập khẩu gạo tại các thị trường vẫn ở mức cao, đặc biệt là thị trường Philippines và Trung Quốc. Gạo Việt Nam đang mở rộng tới nhiều thị trường nên các doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế này để gia tăng sản lượng gạo xuất khẩu.

Với mục tiêu năm 2022 xuất khẩu 6,3 triệu tấn gạo, trị giá 3,3 tỷ USD, nhiều chuyên gia nông nghiệp cho rằng, xuất khẩu gạo hoàn toàn có thể đạt, thậm chí vượt kế hoạch đề ra. Để làm được việc đó, các doanh nghiệp cần khai thác triệt để lợi thế về giá, về nhu cầu thị trường và nhóm thị trường.

Được biết, thương mại gạo toàn cầu trong năm dương lịch 2023 được USDA điều chỉnh tăng nhẹ so với dự báo trước nhưng không thay đổi so với mức kỷ lục 54,7 triệu tấn của năm 2022.

So với niên vụ trước, các lô hàng xuất khẩu từ Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Guyana, Pakistan, Paraguay, Thái Lan và Uruguay dự kiến sẽ tăng lên trong năm 2023. Trong đó, xuất khẩu gạo của Ấn Độ dự kiến sẽ tăng 250.000 tấn lên mức kỷ lục 22 triệu tấn và chiếm 40% thương mại gạo toàn cầu.

Mặc dù sản lượng giảm nhưng Ấn Độ vẫn có nguồn cung gạo xuất khẩu lớn và giá cả cạnh tranh. Xuất khẩu gạo của Ấn Độ thậm chí còn nhiều hơn tổng khối lượng của ba nhà xuất khẩu lớn tiếp theo là Thái Lan, Việt Nam và Pakistan cộng lại. Ngoài gạo xát nguyên hạt, Ấn Độ còn xuất khẩu khối lượng kỷ lục gạo tấm giá rẻ, chủ yếu đến Trung Quốc, Tây Phi và Việt Nam.

Ngược lại, xuất khẩu gạo của Brazil, Myanmar, Campuchia, Nga và Việt Nam dự kiến sẽ giảm vào năm 2023.

Thông tin Ấn Độ, nước xuất khẩu ngũ cốc lớn nhất thế giới, đã cấm xuất khẩu gạo tấm và áp thuế 20% đối với xuất khẩu nhiều loại ngũ cốc khác trong nỗ lực ổn định giá, đáp ứng nhu cầu của hơn 1,3 tỷ dân. Giá gạo vì thế đã tăng 5% tại châu Á kể từ thông báo của Ấn Độ và dự kiến sẽ tăng hơn nữa trong tuần này.

Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục