Xuất khẩu dăm gỗ: Số 1 thế giới vẫn không “quyết” nổi thị trường
Phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), năm 2009, Việt Nam có 47 nhà máy dăm với lượng dăm XK đạt khoảng 2,3 triệu tấn khô. Đến 2014, con số này tăng lên 130 nhà máy với lượng dăm XK đạt 7 triệu tấn khô. Năm 2018, lượng dăm XK đạt kỷ lục gần 10,4 triệu tấn khô, trị giá 1,34 tỷ USD.
Trong 4 tháng đầu năm 2019, lượng dăm XK của Việt Nam đã tăng vọt lên gần 4 triệu tấn, tương đương gần 0,56 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành nước XK dăm lớn nhất trên thế giới.
TS Tô Xuân Phúc (Tổ chức Forest Trends) cho biết, hiện Việt Nam đã trở thành nước XK dăm lớn nhất thế giới, chiếm trên dưới 30% tổng cung dăm toàn cầu. Cung dăm từ Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng.
Trung Quốc là thị trường tiêu thụ dăm gỗ lớn nhất của Việt Nam, với lượng nhập hàng năm lên tới 60-70% tổng lượng dăm của Việt Nam XK đi tất cả các thị trường. Các thị trường lớn tiếp theo của Việt Nam bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc.
Việt Nam đứng đầu thế giới về XK dăm gỗ nhưng không làm chủ được thị trường. Ảnh: T.L
Mặc dù là nước đứng đầu thế giới về cung dăm gỗ ra thị trường nhưng ngành dăm Việt Nam vẫn chưa đủ mạnh để định hình thị trường tiêu thụ dăm thế giới mà vẫn phụ thuộc rất lớn vào thị trường Trung Quốc. Cụ thể, tại Trung Quốc, dăm gỗ Việt Nam không cạnh tranh được với dăm gỗ của các nước khác về mức giá.
Nguyên nhân là do chất lượng dăm của Việt Nam kém hơn chất lượng dăm của các nước. Hiện tượng lẫn tạp chất, độ ẩm cao, ẩm mốc, hàm lượng xenluloza thấp trong dăm gỗ Việt Nam tương đối phổ biến. Bên cạnh đó, ngành dăm phát triển nóng, mất kiểm soát dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, đẩy giá XK xuống.
“Theo thông tin chia sẻ từ một số doanh nghiệp (DN), ngành dăm gỗ có hiện tượng làm giá bởi các DN Trung Quốc tại Việt Nam. Các công ty dăm Trung Quốc sang mua lại các công ty dăm của Việt Nam, thuê quản lý người Việt, những người có nhiều kinh nghiệm trong ngành trước đó. Họ phối hợp với nhau, dìm giá bán.
Trong khi đó, tính liên kết giữa các DN dăm của Việt Nam còn lỏng lẻo khiến ngành dăm gỗ Việt Nam dù cung một lượng lớn nhất cho thế giới nhưng vẫn tham gia thị trường thế giới với vị thế bị động chứ chưa phải chủ động” - ông Phúc nói.
Có lộ trình tăng thuế phù hợp
Ngoài các vấn đề nêu trên, câu chuyện rất đáng quan tâm của ngành dăm hiện nay chính là tăng thuế XK. Thời gian vừa qua, Chính phủ đã ban hành một số chính sách nhằm hạn chế XK dăm gỗ, tăng cường chế biến sâu. Một trong những biện pháp cơ bản là áp dụng tăng thuế XK dăm gỗ lên 2% kể từ năm 2016.
Hiện, Bộ Tài chính đang tiến hành tham vấn với các bộ, ngành liên quan và cân nhắc trình Chính phủ kế hoạch tăng thuế XK dăm từ 2% hiện nay lên 5%. Mức thuế cao, được kỳ vọng sẽ khuyến khích trồng rừng gỗ lớn, tạo nguyên liệu đầu vào cho ngành chế biến đồ gỗ, từ đó mang lại lợi ích cao hơn của cả hộ trồng rừng lẫn ngành đồ gỗ.
Ông Nguyễn Anh Tuấn – Giám đốc Công ty TNHH Nguyên liệu giấy Quy Nhơn - cho rằng, việc tăng thuế mới giải quyết được phần ngọn của vấn đề. Chính phủ cần có sự chỉ đạo các bộ, ban, ngành có đánh giá tác động của việc áp, tăng thuế XK dăm gỗ để có lộ trình tăng thuế phù hợp, không để tác động tiêu cực đến diện tích rừng trồng và người trồng rừng.
Xung quanh vấn đề này, đại diện Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) cho hay, Bộ Tài chính đang xem xét sửa đổi thuế XK dăm gỗ nhưng chưa có phương án chính thức. Trên cơ sở ghi nhận, lắng nghe ý kiến kiến nghị của các DN và hiệp hội, Bộ Tài chính sẽ có những điều chỉnh phù hợp trình Chính phủ trong thời gian tới.
“Hiệp hội dăm có vai trò kết nối các DN, đảm bảo cân bằng lợi ích, giảm thiểu phát triển nóng và cạnh tranh không lành mạnh trong ngành. Hiệp hội cũng cần xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu, với chất lượng sản phẩm được đặt lên hàng đầu; kiểm soát chất lượng dăm XK, nhằm duy trì thương nhằm nâng cao hình ảnh, xác định vị thế của ngành trên trường quốc tế” - ông Tô Xuân Phúc nói.