Gạo Thái, gạo Ấn Độ đều tăng, gạo Việt "giậm chân tại chỗ"

28/08/2022 17:23 GMT+7
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong tuần không có biến động, song theo đánh giá của các doanh nghiệp, mức giá hiện nay giúp gạo Việt có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với gạo cùng loại của các quốc gia khác...


Thu hoạch lúa hè thu vào cuối vụ, thị trường giao dịch chậm, giá gạo giảm

Giá gạo Ấn Độ tăng cao trong tuần này do thời tiết bất ổn. Tại Ấn Độ, giá gạo đồ 5% tấm ở mức 362 - 368 USD/tấn. Số liệu của Bộ Nông nghiệp Ấn Độ tuần trước cho thấy người nông dân đã trồng lúa trên 34,37 triệu ha, giảm 8,3% so với cùng kỳ một năm trước. Nhu cầu đối với tất cả các loại ngũ cốc tăng do thời tiết "thất thường" khuyến khích người mua châu Á tích trữ. Bangladesh chuẩn bị hoàn tất thỏa thuận với Ấn Độ để nhập khẩu 100.000 tấn gạo theo hợp đồng giữa hai Chính phủ.

Tại Việt Nam, giá gạo 5% tấm không đổi so với tuần trước, được giao dịch ở mức 390-393 USD/tấn, gạo 25% tấm 378 USD/tấn, gạo 100% tấm 383 USD/tấn. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua liên tục đi ngang, còn giá gạo Thái Lan liên tục điều chỉnh tăng. Hiện giá gạo 5% tấm của Thái Lan đang ở mức 417 USD/tấn, cao hơn 34 USD/tấn so với gạo cùng loại Việt Nam, gạo 25% tấm ở mức 396 USD/tấn, cao hơn gạo Việt Nam 18 USD/tấn; gạo 100 % ở mức 430 USD/tấn, cao hơn gạo Việt Nam 47 USD/tấn.

Doanh nghiệp xuất khẩu gạo cho biết doanh số bán chậm và nhu cầu yếu là nguyên nhân giá gạo của Việt Nam chưa có sự bứt phá về giá. Trong khi đó, tại Thái Lan, cơ quan chức năng của nước này cho biết, giá gạo tăng bởi nhu cầu bất ngờ gia tăng ở nhiều nước.

Gạo Thái, gạo Ấn Độ đều tăng, gạo Việt "giậm chân tại chỗ" - Ảnh 1.

Giá lúa gạo hôm nay 28/8 tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh giảm với mặt hàng gạo. Thu hoạch lúa hè thu đang vào cuối vụ, thị trường giao dịch chậm. Cụ thể, nếp tươi An Giang 5.900 – 6.100 đồng/kg; nếp tươi Long An 6.300 – 6.550 đồng/kg; Đài thơm 8 5.800 – 6.000 đồng/kg; lúa OM 18 5.800 – 6.000 đồng/kg; IR 504 5.400 – 5.500 đồng/kg; Nàng hoa 9 duy trì ở mức 5.600 – 5.800 đồng/kg; lúa OM 5451 ở mức 5.500 – 5.600 đồng/kg; lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg; nếp An Giang khô 7.500 – 7.600 đồng/kg; nếp Long An khô 7.700 đồng/kg.

Trong tuần qua, giá các chủng loại lúa nhìn chung duy trì ổn định. Riêng mặt hàng lúa nếp và lúa IR 504 điều chỉnh tăng. Cụ thể, nếp tươi Long An tăng 200 đồng/kg so với đầu tuần, lúa IR 504 tăng 50 – 150 đồng/kg so với đầu tuần.

Với mặt hàng gạo, giá gạo hôm nay điều chỉnh giảm 50 đồng/kg với cả gạo nguyên liệu và thành phẩm. Cụ thể, giá gạo nguyên liệu IR 504 đang ở mức 8.000 đồng/kg, giảm 50 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 giữ ở mức 8.550 – 8.600 đồng/kg, giảm 50 đồng/kg. Tương tự, giá tấm duy trì ở mức 8.400 đồng/kg; cám khô ổn định 8.000 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg.

Trong tuần qua, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm liên tục điều chỉnh trái chiều. Nếu thời điểm đầu tuần giá gạo điều chỉnh tăng thì từ giữa đến cuối tuần, giá lạo lại có xu hướng giảm. Tổng kết tuần, giá gạo nguyên liệu không có thay đổi so với đầu tuần, trong khi giá gạo thành phẩm giảm 100 đồng/kg. Với phụ phẩm, giá tấm đi ngang, giá cám giảm 250 đồng/kg so với đầu tuần.

Tại chợ lẻ, giá gạo thường 11.500 đồng/kg – 12.500 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 15.000 – 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 14.000 đồng/kg; nếp ruột 14.000 – 15.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg; Gạo thơm thái hạt dài 18.000 – 19.000 đồng/kg; Gạo Hương Lài 19.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg; Nàng Hoa 17.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 20.000 đồng/kg; Cám 7.000 – 8.000 đồng/kg.

Gạo Việt vẫn có nhiều lợi thế cạnh tranh 

Mặc dù giá gạo Việt Nam trong tuần qua không có biến động, song theo đánh giá của các doanh nghiệp, mức giá hiện nay giúp gạo Việt có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với gạo cùng loại của các quốc gia khác.

Dự báo về thị trường xuất khẩu gạo thời gian tới, nhiều doanh nghiệp và chuyên gia cho rằng, giá thị trường gạo sẽ có nhiều khả quan nhờ nhu cầu từ các nước Philippines, Trung Quốc và EU.

Dự báo này hoàn toàn có cơ sở khi ới đây, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, (USDA) đã hạ dự báo sản lượng gạo toàn cầu trong niên vụ 2022-2023 xuống còn 512,4 triệu tấn, giảm 1,2 triệu tấn so với niên vụ trước. Cùng với sản lượng giảm, USDA cũng cho biết, tồn kho cuối kỳ trong niên vụ 2022-2023 được điều chỉnh giảm 4,2 triệu tấn so với dự báo trước và giảm 3% so với niên vụ 2021-2022, xuống còn 178,5 triệu tấn và là năm sụt giảm thứ ba liên tiếp. Tuy nhiên, tiêu thụ dự báo tăng 2 triệu tấn lên mức kỷ lục 518,7 triệu tấn.

Tháng 8/2022, USDA dự báo, sản lượng gạo toàn cầu niên vụ 2021 – 2022 được dự báo sẽ tăng nhẹ so với dự báo trước đó. Nhập khẩu sẽ tăng cao do nhu cầu cao hơn từ Bangladesh, Philippines và Iraq. Tương tự, xuất khẩu cũng cao hơn một chút do sự gia tăng xuất khẩu đến từ Ấn Độ và Thái Lan.

Nhập khẩu gạo của một số quốc gia năm 2022 dự báo tăng so với ước tính trước đó. Tại Philippines, dự kiến lượng gạo nhập khẩu năm 2022 sẽ đạt 3,2 triệu tấn.

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, 7 tháng đầu năm xuất khẩu gạo sang Philippines tăng mạnh vì họ lo ngại Ấn Độ dừng xuất khẩu gạo nên đẩy mạnh mua gạo từ Việt Nam. Tuy lượng gạo xuất khẩu tăng mạnh nhưng kim ngạch tăng không tương xứng, do thương nhân ép giá và tính ra giá trị xuất khẩu gạo sang Philippines giảm chứ không tăng so với cùng kỳ năm 2021.

Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, 7 tháng năm 2022 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt gần 4,08 triệu tấn, tương đương trên 1,99 tỷ USD, tăng 17,3% về khối lượng, tăng 6% về kim ngạch so với cùng kỳ, giá  xuất khẩu trung bình đạt 488,9 USD/tấn, giảm 9,6%.

Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 48,6% trong tổng lượng xuất khẩu và chiếm 46,4% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt 1,98 triệu tấn, tương đương 924,88 triệu USD, tăng tới gần 67% về lượng, tăng 40% về kim ngạch nhưng giảm 10,9% về giá.

Tiếp sau đó là thị trường Trung Quốc chiếm trên 11,4% trong tổng lượng và chiếm 12,2% trong tổng kim ngạch, đạt 466.225 tấn, tương đương 242,74 triệu USD, giảm 28% cả về lượng và kim ngạch; giá giảm nhẹ 1% so với cùng kỳ năm 2021.

Gạo Thái, gạo Ấn Độ đều tăng, gạo Việt "giậm chân tại chỗ" - Ảnh 2.

Dự báo về thị trường xuất khẩu gạo thời gian tới, nhiều doanh nghiệp và chuyên gia cho rằng, giá thị trường gạo sẽ có nhiều khả quan nhờ nhu cầu từ các nước Philippines, Trung Quốc và EU.

Nhận định về triển vọng xuất khẩu gạo thời gian tới, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho rằng sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng, khi nhu cầu gạo từ Philippines không thể không tăng, cùng với nhu cầu nhập khẩu gạo trở lại từ thị trường Trung Quốc. VDSC cũng cho rằng biên lợi nhuận gộp của các nhà sản xuất gạo Việt Nam sẽ cải thiện nhờ xu hướng giảm giá phân bón sẽ tiếp tục trong thời gian tới.

Từ đầu năm 2022, cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu, hậu quả của đại dịch Covid-19, căng thẳng giữa Nga-Ukraine và sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, là một trong những mối quan tâm lớn nhất của người dân trên toàn thế giới. Hơn nữa, sự gia tăng mạnh mẽ của giá lúa mì trong giai đoạn tháng 6/2020 và tháng 5/2022 đã dẫn đến xu hướng sử dụng một số thực phẩm bằng gạo có giá thành rẻ hơn để thay thế lúa mì. Do đó, nhu cầu gạo toàn cầu đã tăng mạnh trong nửa đầu năm 2022 và tiếp tục tăng trong các tháng cuối năm nay.

Cùng với chi phí đầu vào (như phân bón) tăng mạnh, giá gạo thế giới đã tăng trong 6 tháng đầu năm 2022 sau khi tăng mạnh trong giai đoạn tháng 8/2020 và 12/2021. Mặc dù giá gạo toàn cầu điều chỉnh giảm hiện nay; song với Việt Nam (nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba thế giới) giá xuất khẩu gạo trung bình khó có thể giảm xuống thấp nữa. Giá gạo Việt Nam có khả năng sẽ không giảm thêm vì nhu cầu toàn cầu vẫn mạnh, trong khi nguồn cung từ vụ thu hoạch hè thu ở tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đang giảm.

VDSC kỳ vọng sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng dựa trên ba nguyên nhân chính: Thứ nhất, nhu cầu nhập khẩu từ Philippines - nhà nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam - được dự báo sẽ tiếp tục tăng. Tiêu thụ gạo ở Philippines đang tăng do giá lúa mì tăng cao. Bên cạnh đó, sản lượng gạo sản xuất của Phillippines được dự báo đi ngang (tăng 2% so với cùng kỳ theo dự báo của USDA) đã thúc đẩy hoạt động nhập khẩu. Do đó, Việt Nam, chiếm hơn 80% tổng thị phần xuất khẩu gạo vào Phillippines trong giai đoạn 2021-2022, sẽ được hưởng lợi.

Thứ hai, Trung Quốc - nhà nhập khẩu gạo lớn thứ hai của Việt Nam với 15% tổng giá trị xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2022 - dự kiến sẽ quay trở lại nhập khẩu. Trong 5 tháng qua, xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 19,5% cả về sản lượng và giá trị do chính sách Zero-Covid của nước này.

Mặc dù chính sách này chưa được dỡ bỏ, VDSC kỳ vọng rằng Trung Quốc sẽ quay trở lại nhập khẩu gạo ngày càng nhiều trong giai đoạn nửa cuối năm. Nguyên nhân chính là do các hạn chế nghiêm ngặt đối với việc di chuyển trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đã gây ra gián đoạn hoạt động sản xuất nông nghiệp vụ xuân, do đó thúc đẩy nhập khẩu gạo và ngô.

Cuối cùng, xuất khẩu gạo sang châu Âu dự kiến sẽ tăng mạnh nhờ Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Theo cam kết trong EVFTA, EU sẽ dành cho Việt Nam hạn ngạch xuất khẩu 80.000 tấn gạo/năm. Mặc dù nhập khẩu gạo từ EU chỉ chiếm 0,5% tổng giá trị xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2022, nhưng có rất ít doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn để vào thị trường này.

Hiện tại, các doanh nghiệp đang tận dụng tối đa việc nhu cầu tăng cao từ thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu gạo. Doanh nghiệp xuất khẩu gạo cho biết, nhu cầu nhập khẩu gạo tại các thị trường vẫn ở mức cao, đặc biệt là thị trường Philippines và Trung Quốc. Gạo Việt Nam đang mở rộng tới nhiều thị trường nên các doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế này để gia tăng sản lượng gạo xuất khẩu.

Với mục tiêu năm 2022 xuất khẩu 6,3 triệu tấn gạo, trị giá 3,3 tỷ USD, nhiều chuyên gia nông nghiệp cho rằng, xuất khẩu gạo hoàn toàn có thể đạt, thậm chí vượt kế hoạch đề ra. Để làm được việc đó, các doanh nghiệp cần khai thác triệt để lợi thế về giá, về nhu cầu thị trường và nhóm thị trường.

Thương mại gạo toàn cầu năm 2023 tương đương 2022

Thương mại gạo toàn cầu trong năm dương lịch 2023 được USDA điều chỉnh tăng nhẹ so với dự báo trước nhưng không thay đổi so với mức kỷ lục 54,7 triệu tấn của năm 2022.

So với niên vụ trước, các lô hàng xuất khẩu từ Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Guyana, Pakistan, Paraguay, Thái Lan và Uruguay dự kiến sẽ tăng lên trong năm 2023. Trong đó, xuất khẩu gạo của Ấn Độ dự kiến sẽ tăng 250.000 tấn lên mức kỷ lục 22 triệu tấn và chiếm 40% thương mại gạo toàn cầu.

Mặc dù sản lượng giảm nhưng Ấn Độ vẫn có nguồn cung gạo xuất khẩu lớn và giá cả cạnh tranh. Xuất khẩu gạo của Ấn Độ thậm chí còn nhiều hơn tổng khối lượng của ba nhà xuất khẩu lớn tiếp theo là Thái Lan, Việt Nam và Pakistan cộng lại. Ngoài gạo xát nguyên hạt, Ấn Độ còn xuất khẩu khối lượng kỷ lục gạo tấm giá rẻ, chủ yếu đến Trung Quốc, Tây Phi và Việt Nam.

Ngược lại, xuất khẩu gạo của Brazil, Myanmar, Campuchia, Nga và Việt Nam dự kiến sẽ giảm vào năm 2023.


Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục