Loạt khó khăn, vướng mắc trong quá trình cho vay vốn thực hiện nông nghiệp công nghệ cao
Tại Diễn đàn nông nghiệp 2024: "Nông nghiệp thông minh đột phá từ công nghệ 5.0", ông Lê Văn Tuấn, Phó trưởng ban Chính sách tín dụng, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) cho biết, với việc sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, phát triển nông nghiệp công nghệ cao là xu hướng tất yếu của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Agribank xác định, nông nghiệp ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao là lĩnh vực được ưu tiên và luôn dành nhiều ưu đãi cho khách hàng vay vốn qua việc đồng bộ triển khai nhiều giải pháp để tạo nguồn vốn cho tăng trưởng tín dụng và hỗ trợ khách hàng.
Trên thực tế, Agribank không ngừng nỗ lực cải tiến quy trình, áp dụng công nghệ, rút gọn thời gian thẩm định dự án, phương án vay vốn.
Đồng thời, tiết giảm chi phí để mở rộng vốn cho đầu tư tín dụng, giúp khách hàng tiếp cận vốn vay một cách nhanh chóng; tích cực thực hiện chính sách về thúc đẩy ngân hàng xanh, cam kết áp dụng tiêu chuẩn ESG và tích hợp vào chiến lược kinh doanh để góp phần xanh hóa hoạt động ngân hàng, bảo vệ môi trường và hỗ trợ cộng đồng, đóng góp vào cam kết quốc tế tại Việt Nam.
Ngay khi Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 813/QĐ-NHNN (ngày 24/4/2017) chỉ đạo các ngân hàng thương mại triển khai chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, Agribank đã hưởng ứng mạnh mẽ triển khai ngay lập tức gói tín dụng 50.000 tỷ đồng và là ngân hàng có mức cam kết cho vay cao nhất trong tổng các ngân hàng thương mại đăng ký tham gia.
Bên cạnh đó, khách hàng vay vốn theo chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch của Agribank được miễn phí chuyển tiền trong hệ thống Agribank, giảm 50% theo mức phí quy định hiện hành của Agribank đối với chuyển tiền ngoài hệ thống Agribank…
Tuy nhiên, ông Tuấn cho biết, vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình cho vay vốn thực hiện công nghệ cao.
Ông dẫn chứng, chính sách liên quan đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao còn nhiều bất cập như: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản trên đất nông nghiệp, tạo điều kiện hỗ trợ khách hàng làm thủ tục thế chấp vay ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn; Tiêu chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch còn chung chung, chưa quy định cơ quan nào xác nhận các tiêu chí của dự án, nên ngân hàng thương mại thiếu căn cứ để xác định cho vay theo Chương trình.
Bên cạnh đó, thiếu nguồn vốn đầu tư để phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, theo ông Tuấn trước tiên phải có vốn đầu tư lớn cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, xử lý môi trường, đầu tư giống cây trồng, vật nuôi, máy móc, công nghệ, đào tạo người lao động, giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm…
Việc tích tụ đất đai và kết cấu hạ tầng ở khu vực nông thôn còn nhiều bất cập. Để sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, cần phải có diện tích đất quy mô lớn, ở vị trí thuận lợi cho sản xuất và lưu thông hàng hóa. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, việc phát triển nông nghiệp còn thiếu quy hoạch, quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất còn chậm.
Chưa hết, chính sách đất nông nghiệp chưa khuyến khích nông dân bảo vệ đất và đầu tư dài hạn vào đất. Thêm vào đó, đất sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn còn rất manh mún. Với tình trạng này, nếu Nhà nước và các cấp chính quyền không có những giải pháp thúc đẩy tích tụ tập trung những diện tích đất đai nhỏ lẻ để xây dựng cánh đồng mẫu lớn, thì khó có thể khuyến khích nông dân mở rộng sản xuất, xây dựng nông trang, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp.
Những năm gần đây do thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, kết cấu hạ tầng ở khu vực nông thôn ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, thì vẫn còn khoảng cách khá xa. Hệ thống đường nông thôn chưa theo kịp với tốc độ phát triển và tiềm lực của các vùng kinh tế sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp sẽ là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp khi muốn đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Thực tế cho thấy, năng lực nội sinh lĩnh vực khoa học công nghệ trong nông nghiệp của nước ta còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất. Bất cập trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ; Công nghệ chế biến sâu chưa làm chủ được, các doanh nghiệp vẫn phải nhận chuyển giao từ nước ngoài... là những rào cản cho phát triển nông nghiệp CNC thời gian qua.
Ông Tuấn cũng chỉ ra, tính tuân thủ của các bên khi tham gia chuỗi giá trị và thị trưởng bảo hiểm nông nghiệp vẫn chưa phát triển tương xứng. Việc tuân thủ hợp đồng nông nghiệp của các đơn vị trong chuỗi giá trị còn nhiều bất cập, thiếu biện pháp xử lý để tăng tính ràng buộc.
Bên cạnh đó, lĩnh vực nông nghiệp có rủi ro lớn nhưng số lượng doanh nghiệp tham gia bảo hiểm còn hạn chế, sản phẩm bảo hiểm còn đơn điệu.
Mặt khác, bản chất của ngành nông nghiệp là gắn liền với rủi ro nên các doanh nghiệp bảo hiểm cũng chưa mặn mà.
Ngoài ra, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp còn hạn hẹp, không ổn định, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế sản xuất một số sản phẩm còn thấp, chưa tương xứng với mức độ đầu tư. Phần lớn nông sản của Việt Nam xuất khẩu mới chỉ ở dạng thô, sơ chế, giá trị gia tăng thấp, nhiều loại nông, lâm, thủy sản chưa có thương hiệu trên thị trường quốc tế, khả năng cạnh tranh thấp.
Cuối cùng, chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2020, lao động nông nghiệp trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo là 12,57 triệu người, chiếm 89,97% tổng số lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản trong độ tuổi lao động. Trong khi đó, việc đào tạo đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta còn nhiều bất cập, chưa bám sát yêu cầu của thực tế.
Phát triển nông nghiệp công nghệ cao là cần thiết đối với các quốc gia trên thế giới và đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Do đó, để thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong thời gian tới, ông Tuấn kiến nghị, các Bộ ngành cần nhanh chóng ban hành các khung pháp lý, quy định và hướng dẫn liên quan tới lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, tài chính xanh nhằm khơi thông hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp cũng như tổ chức tài chính tham gia vào thị trường nông nghiệp công nghệ cao, tài chính xanh.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ chi phí thiết kế đồng ruộng, cơ sở hạ tầng, tạo vùng sản xuất tập trung chuyên canh sản xuất hàng hóa, thuận tiện cho áp dụng cơ giới hóa để sản xuất Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; hỗ trợ chi phí đo đạc, lập hồ sơ, chuyển đổi đất đai giữa các tổ chức, hộ nông dân, doanh nghiệp tham gia đầu tư trong vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,….
Đồng thời, cần hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân xúc tiến thị trường thông qua nhiều hình thức, như tham gia hội nghị, hội thảo, hội chợ ở nước ngoài, hỗ trợ các doanh nghiệp và nông dân xây dựng thương hiệu sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao; hỗ trợ và khuyến khích các hợp tác xã, tổ hợp tác quảng bá và bán sản phẩm thông qua các ứng dụng mua sắm trực tuyến, mạng xã hội.
Tiến hành xây dựng các mô hình ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ để đưa vào phục vụ nông nghiệp. Phối hợp với các sở, ngành, viện, trường, các tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp, các tổ chức nước ngoài tập hợp các dữ liệu, tài liệu, mô hình đã có.
Ông Tuấn cũng cho rằng, cần xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong quản lý chất lượng sản phẩm nông nghiệp từng bước phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế (Global Gap); tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường và đảm bảo sức khỏe cộng đồng.