World Bank: 2 động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam đang chững lại
Điều kiện sản xuất kinh doanh trong tháng 11 đã xấu đi
Chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng 5,3% trong tháng 11 (so cùng kỳ) so với 6,3% trong tháng 10 (so cùng kỳ), là mức tăng thấp nhất kể từ tháng 02/2022. Tăng trưởng giảm đà phần nào do hiệu ứng xuất phát điểm cao. Thực chất chỉ số sản xuất công nghiệp phục hồi từ mức -1,8% trong tháng 10/2021 (so cùmg kỳ) lên 8,2% trong tháng 11/2021 (so cùng kỳ) khi quốc gia mở cửa lại sau một giai đoạn giãn cách COVID-19 kéo dài. Ngoài ra, sức cầu bên ngoài yếu đi cũng là một yếu tố đóng góp quan trọng nữa, khi nhu cầu của các thị trường xuất khẩu chủ lực đã và đang suy giảm.
Tiếp tục xu hướng giảm từ tháng 09/2022, chỉ số PMI trong lĩnh vực chế tạo chế biến lần đầu tiên bị trượt về vùng suy giảm (dưới 50 điểm) kể từ tháng 10/2021, giảm từ 50,6 trong tháng 10/2022 xuống còn 47,4 trong tháng 11. Điều này cho thấy điều kiện sản xuất kinh doanh trong tháng 11 đã xấu đi so với các tháng trước đó.
Tăng trưởng sản xuất công nghiệp giảm về tổng thể cho thấy có sự khác biệt về kết quả ở các lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn, sản lượng máy tính, sản phẩm điện tử và quang học phục hồi, tăng từ 2,6% trong tháng 10 (so cùng kỳ) lên 5,6% trong tháng 11 (so cùng kỳ). Sản lượng máy móc cũng phục hồi từ mức 9,8% lên 17,2% trong cùng kỳ. Mặt khác, sản lượng may mặc giảm từ 5,5% trong tháng 10 (so cùng kỳ) xuống còn 2,2% trong tháng 11 (so cùng kỳ).
Mặc dù du lịch quốc tế tiếp tục phục hồi nhưng số lượt khách du lịch vẫn thấp hơn nhiều so với thời kỳ trước khủng hoảng COVID. Quốc gia đón được gần
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục giảm
Trong 11 tháng đầu năm 2022, tổng số đăng ký vốn FDI đạt 25,1 tỷ US$, giảm 5,0% so với cùng kỳ năm trước. Số giải ngân vốn FDI vẫn mạnh, tăng 14,4% trong tháng 11 (so cùng kỳ) và 15,1% trong 11 tháng đầu năm 2022 (so cùng kỳ).
600.000 lượt khách quốc tế trong tháng 11, cao hơn 23,2% so với tháng 10, nhưng chỉ bằng một phần ba so với số liệu tháng 11/2019. Lý do một phần là do khách Trung Quốc quay lại chậm, trong khi bình quân chiếm đến 32% tổng lượt khách quốc tế trong năm 2019, so với 7,2% trong 11 tháng đầu năm 2022 và 2,6% trong tháng 11/2022.
Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa đều giảm lần đầu tiên kể từ tháng 11/2021
Xuất nhập khẩu hàng hóagiảm lần lượt 8,4% và 7,2% trong tháng 11/2022 (so cùng kỳ năm trước). Xuất khẩu giảm đồng loạt, một phần do sức cầu bên ngoài yếu đi nhưng cũng do hiệu ứng xuất phát điểm cao so với tốc độ tăng ngoại lệ vào tháng 11/2021 nhờ nền kinh tế được mở cửa lại sau nhiều tháng giãn cách (tăng lần lượt 26,3% và 24,1% trong tháng 11/2021 (so cùng kỳ).
Do xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu, hầu hết các sản phẩm nhập khẩu chủ lực đều giảm mạnh so với năm trước đó, ngoại trừ kim ngạch nhập khẩu nhiên liệu, tăng 61,7% trong tháng 11/2022 (so cùng kỳ năm trước).
Lạm phát cơ bản và toàn phần tiếp tục tăng
Lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) nhích nhẹ từ 4,3% trong tháng 10 lên 4,4% trong tháng 11. Giá lươngthực, thực phẩm, nhà ở và vật liệu xây dựng là yếu tố đóng góp chính cho lạm phát CPI, tăng lần lượt 5,2% và 6,0% trong tháng 11 (so cùng kỳ năm trước).
Đóng góp của cước vận tải cho CPI tiếp tục giảm do giá xăng dầu đã giảm. Mặc dù giá xăng dầu tăng lần lượt 5,8% và 6,0% (so tháng trước) trong tháng 11/2022, nhưng vẫn thấp hơn 4,1% so với năm trước. Lạm phát cơ bản, nghĩa là không gồm giá lương thực, thực phẩm, năng lượng và các mặt hàng có giá do Nhà nước quản lý (y tế và giáo dục), tiếp tục tăng từ 4,5% trong tháng 10 lên 4,8% trong tháng 11, đạt kỷ lục mới.
Tăng trưởng tín dụng hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao
Tăng trưởng tín dụng giảm từ 16,5% trong tháng 10 (so cùng kỳ) xuống còn 15,0% trong tháng 11 (so cùng kỳ) là mức giảm mạnh nhất trong những tháng qua (Hình 7). Tăng trưởng tín dụng giảm do tác động của điều kiện huy động tài chính bị thắt chặt sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nâng các mức lãi suất chính lên tổng cộng 200 điểm cơ bản trong tháng 09 và tháng 10. Lãi suất liên ngân hàng qua đêm bình quân vẫn ở mức cao, 5,7% trong tháng 11/2022, Ngoài ra còn do mức trần tăng trưởng tín dụng do NHNN đặt ra, nhưng mức trần này đã được nới lỏng vào đầu tháng 12, khi trần tín dụng được nâng thêm 1,5-2%.
Đồng tiền của Việt Nam tăng giá nhẹ trong tháng 11 (0,8%) so với mức giảm giá cộng dồn 9,1% kể từ cuối năm 2021. Đồng tiền tăng giá chủ yếu do đồng đô-la Mỹ yếu đi trên thị trường quốc tế. Thực chất, tất cả các đồng tiền lớn và đồng tiền của các quốc gia láng giềng của Việt Nam đều giảm so với đồng đô-la Mỹ trong tháng 11/2022 (Hình 8). Việc NHNN nâng các mức lãi suất chính sách chính thên 200 điểm cơ bản trong tháng 09 và tháng 10/2022 cũng góp phần nới nhẹ áp lực đối với đồng nội tệ.
Cân đối ngân sách đạt bội thu lớn trong tháng 11
Cânđối ngân sách trong tháng 11 đạt 1,4 tỷ US$ bội thu sau khi giảm nhẹ về mức bội chi trong tháng 09 và bội thu nhẹ ở mức 0,2 tỷ US$ trong tháng 10. Tổng thu tăng 5,9% (so cùng kỳ năm trước) trong khi giảm 6,7% (so cùng kỳ) trong tháng 10. Tổng chi cũng tăng cao hơn, tháng 11 tăng 17,0% so với 11,8% của tháng trước (so cùng kỳ). Đến cuối tháng 11/2022, tổng thu đã cao hơn 16,1% so với dự toán thu còn tổng chi bằng 76,2% dự toán chi (cao hơn một điểm % so với cùng kỳ năm trước), dẫn đến bội thu 12,1 tỷ US$ trong 11 tháng đầu năm 2022.
Do cân đối ngân sách đạt bội thu trong điều kiện chi phí vay nợ trong nước tăng nhanh, Kho bạc Nhà nước chỉ phát hành 1,7 tỷ US$ trái phiếu chính phủ có mệnh giá bằng đồng nội tệ trong tháng 11, toàn bộ đều có kỳ hạn dài (từ 10 năm trở lên).
Trong 11 tháng đầu năm 2022, tổng khối lượng phát hành trái phiếu chỉ đạt 45,6% kế hoạch phát hành cả năm, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2021 (đạt 82,3 kế hoạch). Chi phí vay nợ tiếp tục tăng cao, khi lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm tăng từ 4,0% lên 4,8% trên thị trường sơ cấp (mức tăng cao nhất kể từ khi có đại dịch). So với cách đây một năm, lãi suất đã tăng 270 điểm cơ bản. Chênh lệch lợi suất giữa thị trường sơ cấp và thứ cấp đã được thu hẹp khi lợi suất trên thị trường thứ cấp đi ngang ở mức 5,2% trong tháng 11. Chi phí vay nợ tăng cao phản ánh điều kiện huy động tài chính trong nước bị thắt chặt khi NHNN nâng lãi suất để ổn định đồng nội tệ so với đồng đô-la Mỹ trong tháng 09 và tháng 10.
Cả hai động lực tăng trưởng là xuất khẩu và nhu cầu trong nước đều đang chững lại. Nhu cầu bên ngoài yếu đi gây ảnh hưởng đến xuất khẩu. Tiêu dùng hậu covid dường như cũng phục hồi chậm lại. Điều kiện huy động tài chính bị thắt chặt hơn và lạm phát gia tăng có thể ảnh hưởng đến nhu cầu trong nước trong thời gian tới.
Đồng đô-la Mỹ yếu đi trong tháng 11 giúp giảm nhẹ áp lực đối với tỷ giá. Do điều kiện huy động tài chính trên toàn cầu bị thắt chặt và nhu cầu bên ngoài yếu đi, cơ quan quản lý tiền tệ của Việt Nam có thể cân nhắc cho phép tỷ giá được linh hoạt hơn nữa nhằm ứng phó với những cú sốc bên ngoài.
Chính sách này có thể được bổ sung bằng cách sử dụng sáng suốt lãi suất tham chiếu và sử dụng thận rọng can thiệp tỷ giá trực tiếp nhằm bảo vệ được dự trữ ngoại hối. Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ là điều kiện quan trọng để duy trì ổn định giá cả trong bối cảnh lạm phát cơ bản trong nước gia tăng.
Chiến lược chi tiêu thận trọng hơn và tập trung hơn vào đúng ưu tiên nhằm đảm bảo đầu tư cho vốn con người, hạ tầng xanh và thích ứng khí hậu sẽ giúp nâng cao khả năng chống chịu và tiềm năng của nền kinh tế.