483.200 tỷ đồng nợ xấu, nợ tiềm ẩn: Nơm nớp nỗi lo "bùng nợ", ai sẽ hỗ trợ ngân hàng?
Cụ thể, thống kê tại các ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính cho thấy, tính đến cuối quý II/2021, số lượng ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ giảm nhiều gần gấp đôi so với số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng lên.
Tỷ lệ nợ xấu giảm tại nhiều ngân hàng
Trong đó, Kienlongbank là nhà băng có số dư nợ xấu của ngân hàng giảm mạnh 73% từ 1.883 tỷ đồng cuối năm 2020 về 510 tỷ đồng, trong đó nợ xấu nhóm 3 giảm 14,5%; nợ nhóm 5 giảm mạnh nhất với mức giảm lên tới 75,5%.
Điều này là kết quả của việc xử lý các khoản nợ xấu được đảm bảo bởi cổ phiếu STB của Sacombank. Nhờ đó tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng từ mức trên 5% (cuối năm 2020) xuống chỉ còn 1,43% vào cuối quý II/2021.
Tại Techcombank, chất lượng tài sản của Techcombank tiếp tục dẫn đầu ngành với tỷ lệ nợ xấu chỉ ở mức 0,4%, thấp hơn mức 0,9% tại quý II năm 2020 và duy trì ngang với cuối quý I/2021.
Điều đáng nói, tỷ lệ bao phủ nợ xấu tại thời điểm cuối quý 2/2021 của ngân hàng là 259%, tăng so với mức 171% tại thời điểm cuối năm 2020, và 109% tại thời điểm 30/6/2020.
Tại MB, mặc dù cho vay khách hàng tăng mạnh nhưng số dư nợ xấu của MB lại giảm 22% về 2.531 tỷ đồng, cho thấy kết quả khả quan của quá trình xử lý nợ xấu tại ngân hàng.
Theo đó, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay khách hàng của MB giảm mạnh từ 1,09% về 0,76%.
Tương tự, tỷ lệ nợ xấu của OCB cũng giảm từ 1,69% xuống còn 1,53%; Tỷ lệ nợ xấu của VIB giảm về mức 1,3%; Tỷ lệ nợ xấu của SeaBank và Saigonbank cũng giảm lần lượt từ 1,86% xuống còn 1,76% và 1,44% xuống 1,43% cuối quý II/2021.
Trong nửa đầu năm, một số ngân hàng nếu xét về giá trị tuyệt đối con số nợ xấu có xu hướng tăng. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ vẫn không nằm ngoài xu hướng giảm như các ngân hàng kể trên.
Đơn cử như tại LienVietPostbank, số dư nợ xấu ngân hàng tăng nhẹ 1,2% với 2.557 tỷ đồng nhưng tỷ lệ nợ xấu giảm từ 1,43% cuối năm trước về 1,34%.
Tương tự, số dư nợ xấu của NCB tăng nhẹ 1,2% lên 616 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu giảm từ 1,51% cuối năm trước về 1,48%.
Ngân hàng không công bố chi tiết nợ xấu đã bán sang VAMC, tuy nhiên số dư chứng khoán nợ do các tổ chức kinh tế trong nước phát hành (phần lớn là trái phiếu VAMC và DATC) của ngân hàng vẫn duy trì ở 5.886 tỷ đồng.
Nhóm ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng được thống kê bao gồm: Bac A Bank, VPBank, ABBank, PGBank và VietinBank.
Tại Bac A Bank, tổng nợ xấu tính đến cuối quý II/2021 tăng nhẹ 2% so với đầu năm, lên mức hơn 641 tỷ đồng.
Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn tăng mạnh 79%, dù chỉ chiếm hơn 41 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng nhiều vẫn là nợ có khả năng mất vốn với hơn 310 tỷ đồng nợ xấu. Kéo theo đó, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 0,79% lên 0,82%.
Tương tự, tại ABBank, số dư nợ xấu tại ngân hàng đã tăng 17,5% lên 1.556 tỷ đồng. Đáng chú ý, nợ dưới chuẩn (nhóm 3) tăng hơn 90% lên 396,5 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu tăng từ 2,09% lên 2,32%.
PGBank có nợ xấu nội bảng của ngân hàng tăng 12,2% lên 703 tỷ đồng do nhóm nợ nghi ngờ tăng mạnh 58,6% so với cuối năm 2020. Kéo theo đó, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay của ngân hàng cũng tăng từ 2,44% lên 2,67%.
Sau hai quý đầu năm, dư nợ xấu của VPBank tăng 8,8% lên 10.801 tỷ đồng, chủ yếu do tăng nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn). Qua đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đã tăng từ 3,41% lên 3,47%.
Tuy nhiên, đây là nợ xấu bao gồm của cả VPBank và FE Credit. Nếu tính riêng ngân hàng mẹ, tỷ lệ nợ xấu chỉ ở mức 2,1%, thấp hơn so với mức 2,52% cuối năm ngoái.
"Bom nổ chậm" mang tên nợ xấu?
Mặc dù bức tranh nợ xấu tại các ngân hàng thương mại nửa đầu năm nay chưa "xấu" như dự báo của nhiều chuyên gia đã từng đưa ra trước đó, song tại phiên họp Quốc hội ngày 22/7, ông Vũ Hồng Thanh - Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, các khoản nợ xấu tiềm ẩn còn ở mức cao, tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng là 483.200 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ 4,71%, nợ xấu nội bảng tiếp tục tăng (cuối tháng 4 là 1,78%).
Thừa nhận, nợ xấu như "bom nổ chậm" đối với ngân hàng, ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam nhấn mạnh, ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 tới ngành Ngân hàng là rất lớn đặc biệt là nguy cơ tiềm ẩn trong tương lai.
"Theo tôi biết, số nợ cơ cấu theo Thông tư 01/2020 và Thông tư 03/2021 hiện nay là 347 nghìn tỷ đồng. Nhưng con số này khả năng sẽ còn lớn hơn. Trước diễn biến phức tạp của đại dịch, thời gian tới, sức khỏe của doanh nghiệp và nền kinh tế là hết sức khó khăn. Không chỉ riêng lĩnh vực giao thông vận tải, du lịch bị ảnh hưởng mà rất nhiều lĩnh vực khác cũng chịu tác động. Kể cả những đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả trước đây, dù có đơn hàng, có hợp đồng vẫn phải ngừng sản xuất kinh doanh, đóng cửa do công nhân bị nhiễm bệnh.
Nền kinh tế và doanh nghiệp bị ảnh hưởng chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến ngân hàng. Doanh nghiệp sẽ không có tiền để trả nợ vay ngân hàng, trong khi ngân hàng phải tiếp tục trích lập dự phòng rủi ro theo Thông tư 03/2021 trong giai đoạn 3 năm.
Như vậy, chắc chắn nợ xấu của ngân hàng sẽ phát sinh và gia tăng trong thời gian tới", ông Hùng nói.
Cũng theo vị này, nợ xấu giai đoạn này có nhiều điểm khác so với năm 2008, nguyên nhân gây ra không phải do yếu tố chủ quan mà là khách quan bởi dịch bệnh toàn cầu ảnh hưởng tới không chỉ Việt Nam mà cả ở toàn thế giới.
Từ thực tế kể trên, ông Hùng đặt vấn đề: Khi doanh nghiệp, khách hàng vay vốn không trả được nợ, ngân hàng sẽ ra sao? Chưa kể Nghị quyết 42 tới tháng 8/2022 sẽ hết hiệu lực, lúc đó việc xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng sẽ như thế nào? Nợ xấu của ngân hàng sẽ bị đánh giá, nhìn nhận ra sao?
Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã gồng mình lên để tái cơ cấu, đầu tư công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật, cắt giảm chi phí để hỗ trợ nền kinh tế và doanh nghiệp nhưng tới đây, khi nợ xấu phát sinh và phải đảm bảo đưa tỷ lệ nợ xấu về theo đúng quy định thì ai sẽ hỗ trợ ngân hàng?...
Đây là những vấn đề đang đặt ra đối với hoạt động ngân hàng - theo ông Hùng.