Giá cà phê đảo chiều tăng nhờ lực mua mạnh, tồn kho giảm
Giá cà phê hôm nay 19/1: Gia Lai tăng nhẹ, nhiều nơi đi ngang
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London đảo chiều tăng. Kỳ hạn giao ngay tháng 3 tăng 7 USD, lên 1.902 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 5 tăng 8 USD, lên 1.870 USD/tấn, các mức tăng nhẹ. Khối lượng giao dịch duy trì ở mức trung bình.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York cùng xu hướng tăng. Kỳ hạn giao ngay tháng 3 tăng 3,90 cent, lên 155,00 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 5 cũng tăng 3,90 cent, lên 155,70 cent/lb, các mức tăng khá mạnh. Khối lượng giao dịch duy trì trên mức trung bình.
Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên đi ngang, dao động trong khoảng giá 40.300 - 40.900 đồng/kg. Trong đó, mức giá thấp nhất là 40.300 đồng/kg tại tỉnh Lâm Đồng. Ba tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông đang có cùng mức giá 40.900 đồng/kg. Trong đó, chỉ có Gia Lai tăng 100 đồng/kg, các địa phương khác có giá ổn định trong hôm nay.
USDX và chứng khoán Mỹ sụt giảm đã hỗ trợ các tiền tệ mới nổi và thuc đẩy các Quỹ hàng hóa quay lại các thị trường tăng mua đáng kể. Tuy nhiên, xu hướng tăng trên cả hai sàn cà phê kỳ hạn vẫn chưa thực sự rõ ràng khi New York được cho là đã mua bù bán khá mạnh tay trước đó và London chỉ nhờ lực kéo từ sàn New York nên cuối phiên giá đã giảm về tiệm cận mức tâm lý 1900 để chờ đợi xung lực mới.
Báo cáo kết quả khảo sát vụ mùa 2023/2024 lần I của Conab – Brazil sẽ được công bố ngày hôm nay (ngày 19/1) sẽ là xung lực định hướng cho các thị trường cà phê thế giới vào lúc này.
Theo các nhà quan sát, thị trường hàng hóa toàn cầu đã có sự lạc quan sau khi Trung Quốc gỡ bỏ các biện pháp thắt chặt vì chính sách Zero – Covid và nhu cầu mạnh mẽ. Bảng Anh tăng trở lại sau khi dữ liệu cho thấy lạm phát cơ bản vẫn cao hơn dự kiến. Đồng Reais tăng 1,1% lên ở mức 1USD = 5,1590 R$, đã thúc đẩy người Brazil giảm bán hàng nông sản xuất khẩu.
Những ngày đầu tháng 01/2023, giá cà phê thế giới biến động theo xu hướng giảm. Yếu tố thời tiết tại Brazil thuận lợi và dòng vốn đầu cơ quay lại sàn chứng khoán nói chung sau các báo cáo chỉ số kinh tế Hoa Kỳ đã làm hàng hóa phái sinh suy yếu.
Trên sàn giao dịch London, ngày 9/01/2023, giá cà phê Robusta kỳ hạn giao tháng tháng 3/2023 ổn định so với ngày 30/12/2022, ở mức 1.825 USD/tấn. Trong khi đó, giá cà phê Robusta giao kỳ hạn tháng 5/2023, tháng 7/2023 và tháng 9/2023 giảm lần lượt 0,3%, 0,6% và 0,7% so với ngày 30/12/2022, xuống mức 1.797 USD/ tấn; 1.777 USD/tấn và 1.763 USD/tấn
Trên sàn giao dịch New York, ngày 9/01/2023, giá cà phê Arabica giao kỳ hạn tháng 3/2023, tháng 5/2023, tháng 7/2023 và tháng 9/2023 giảm lần lượt 6,9%, 6,6%, 6,2% và 5,9% so với ngày 30/12/2022, xuống còn 158,3 UScent/lb, 160,5 UScent/lb, 158,8 UScent/lb và 159,05 UScent/lb.
Trên sàn giao dịch BMF của Brazil, ngày 9/01/2023, giá cà phê giao kỳ hạn tháng 3/2023, tháng 5/2023, tháng 7/2023 và tháng 9/2023 giảm lần lượt 4,5%, 4,9%, 6,7% và 6,4% so với ngày 30/12/2022, xuống còn 208,4 UScent/lb, 204 UScent/lb, 194,7 UScent/lb và 192,8 UScent/lb.
Tại cảng khu vực thành phố Hồ Chí Minh, cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, tỷ lệ đen vỡ 5% giao dịch ở mức giá 1.855 USD/tấn, chênh lệch +30 USD/ tấn, tăng 1 USD/tấn (tương đương mức tăng 0,05%) so với ngày 30/12/2022.
Dự báo giá cà phê nhiều khả năng sẽ phục hồi nhờ các thông tin hỗ trợ như: Báo cáo tồn kho ICE – London tiếp tục giảm sâu xuống ở mức thấp 4,5 năm. Tính đến ngày 4/01/2023, tồn kho cà phê Robusta được sàn London chứng nhận và theo dõi cấp phát giảm thêm 250 tấn (giảm 0,4%) so với tuần trước, xuống mức 64.010 tấn (tương đương 1.066.833 bao, bao 60 kg), kéo dài chuỗi giảm 10 tuần liên tiếp.
Hai là thời tiết không thuận lợi cho việc thu hoạch và phơi sấy cà phê cuối vụ ở vùng cà phê Tây Nguyên Việt Nam. Ba là theo dữ liệu của Liên đoàn Cà phê Quốc gia Columbia (FNC), nước sản xuất cà phê lớn thứ 2 thế giới đã kết thúc năm 2022 với sản lượng cà phê Arabica giảm 12%; xuất khẩu năm 2022 đạt 11,4 triệu bao, giảm 8% so với năm 2021.
Những ngày đầu tháng 01/2023, giá cà phê Robusta tại thị trường nội địa giảm. Ngày 9/01/2023, giá cà phê Robusta giảm 200 - 300 đồng/ kg so với ngày 30/12/2022: Mức giá giảm 300 đồng/kg tại tỉnh Đắk Lắk, xuống còn 39.400 đồng/kg; mức giảm 200 đồng/kg tại các tỉnh Lâm Đồng, Gia Lai và Đắk Nông, xuống còn 38.900 – 39.600 đồng/kg.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, năm 2022, xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng 13,8% về lượng và tăng 32% về trị giá so với năm 2021, đạt 1,77 triệu tấn, trị giá 4,05 tỷ USD. Tính riêng tháng 12/2022, xuất khẩu cà phê của nước ta đạt 197 nghìn tấn, trị giá 425,16 triệu USD, tăng 53,5% về lượng và tăng 39,7% về trị giá so với tháng 11/2022, so với tháng 12/2021 tăng 16,5% về lượng và tăng 12,6% về trị giá. Dự báo quý I/2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ không duy trì được tốc độ tăng trưởng cao như giai đoạn cuối năm 2022. Theo báo cáo Thương mại tháng 12 của Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), thị trường cà phê thế giới sẽ vẫn đối mặt với khó khăn trong năm 2023 do sức tiêu thụ giảm. Còn theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), sản lượng cà phê toàn cầu dự báo tăng 6,6 triệu bao so với niên vụ 2021/2022 lên 172,8 triệu bao trong niên vụ 2022-2023; tiêu thụ cà phê toàn cầu dự kiến tăng hơn 800.000 bao lên 167,9 triệu bao. Như vậy, nguồn cung cà phê thế giới sẽ vượt nhu cầu khoảng 4,8 triệu bao trong niên vụ 2022/2023.
Diễn biến giá: Tháng 12/2022, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt mức 2.157 USD/tấn, giảm 9% so với tháng 11/2022 và giảm 3,4% so với tháng 12/2021. Tính chung cả năm 2022, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt mức 2.282 USD/tấn, tăng 16% so với năm 2021.
Thị trường xuất khẩu: Năm 2022, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang nhiều thị trường tăng so với năm 2021, gồm: Ý, Bỉ, Tây Ban Nha, Nga, Anh. Ngược lại, xuất khẩu cà phê của nước ta sang thị trường Đức, Hoa Kỳ, Philippines, Trung Quốc giảm.