Giá cà phê hai sàn suy yếu trở lại, cà phê nội tiếp tục giảm 200 đồng/kg
Giá cà phê hôm nay 28/4: Tiếp tục giảm 200 đồng/kg trước kỳ nghỉ lễ
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London sụt giảm liên tiếp phiên thứ ba. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm thêm 8 USD, xuống 2.405 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 9 giảm thêm 5 USD, còn 2.383 USD/tấn, các mức giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình. Cấu trúc giá nghịch đảo tiếp tục thu hẹp khoảng cách.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York đảo chiều giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm 3,40 cent, xuống 188,20 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 9 giảm 3,15 cent, còn 185,40 cent/lb, các mức giảm khá mạnh. Khối lượng giao dịch dưới mức trung bình.
Giá cà phê kỳ hạn trở lại suy yếu trên cả hai sàn. Cà phê Robusta tại London được các Quỹ và đầu cơ tiếp tục thanh lý vị thế ròng đang ở trạng thái “quá mua”, trong khi sàn New York đảo chiều sụt giảm do báo thời tiết các vùng trồng chính ở Brazil mưa nhiều sẽ khiến thu hoạch vụ mùa cà phê Arabica năm nay bị chậm lại.
Lo ngại rủi ro tăng cao khi báo cáo GDP quý I của Mỹ thấp hơn dự kiến có thể làm nhu cầu tiêu thụ cà phê sụt giảm cũng khiến các giới đầu cơ dịch chuyển dòng vốn sang các thị trường chứng khoán hiện đang có mức lợi nhuận hấp dẫn hơn.
Bên cạnh đó, thị trường đã tăng cược vào suy đoán Fed sẽ nâng lãi suất USD lên thêm 0,25% tại phiên họp điều hành đầu tháng 5, góp phần gia tăng gánh nặng cho việc đầu cơ hàng hóa, giúp giá vàng và dầu thô hồi phục nên giá cà phê đành phải "hy sinh".
Tuy nhiên, đồng Reais – Brazil tăng thêm 1,56% đưa tỷ giá lên ở mức 1 USD = 4,9790 R$ khiến người Brazil giảm bán cà phê xuất khẩu nên đã không làm giá giảm sâu hơn.
Trong nước, giá cà phê nhân tại các tỉnh Tây Nguyên giảm thêm 200 đồng, xuống dao động trong khung 50.800 - 51.500 đồng/kg. Trong đó, tỉnh Lâm Đồng có mức giá thấp nhất là 50.800 đồng/kg. Kế đến là hai tỉnh Đắk Nông và Gia Lai với 51.400 đồng/kg. Cùng thời điểm khảo sát, tỉnh Đắk Lắk giao dịch ở mức 51.500 đồng/kg. Đây là mức giao dịch cao nhất trong các địa phương được khảo sát.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, tháng 3/2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 210,37 nghìn tấn, trị giá 482,43 triệu USD, tăng 5,2% về lượng và tăng 10,9% về trị giá so với tháng 2/2023; so với tháng 3/2022 giảm 0,3% về lượng, nhưng tăng 1,7% về trị giá. Tính chung quý I/2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 552,61 nghìn tấn, trị giá xấp xỉ 1,23 tỷ USD, giảm 5,0% về lượng và giảm 5,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Diễn biến giá: Tháng 3/2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt mức 2.293 USD/tấn, tăng 5,5% so với tháng 2/2023 và tăng 2,0% so với tháng 3/2022. Tuy nhiên, tính chung quý I/2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt mức 2.222 USD/tấn, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm 2022.
Cơ cấu thị trường: Tháng 3/2023, xuất khẩu cà phê sang các thị trường Bỉ, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Hà Lan giảm so với tháng 3/2022, tuy nhiên xuất khẩu sang một số thị trường tăng trưởng từ 2 đến 3 con số, gồm: Indonesia, Nga, Angieria, Hoa Kỳ. Quý I/2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang hầu hết các thị trường tăng, ngoại trừ Bỉ, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Hà Lan. Đáng chú ý, xuất khẩu cà phê sang Indonesia và Angieria ghi nhận tốc độ tăng trưởng lên đến 3 con số so với quý I/2022.