Giá cà phê phục hồi dù thị trường thận trọng hơn

08/03/2023 11:00 GMT+7
Giá cà phê Arabica New York tăng hồi phục với các yếu tố cơ bản hỗ trợ, trong khi Robusta London tỏ ra thận trọng hơn. Giá cà phê hôm nay (8/3) quay đầu tăng 100 đồng/kg tại các tỉnh trọng điểm trong nước.

Giá cà phê hôm nay 8/3: Các địa phương tăng nhẹ 100 đồng/kg 

Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London có xu hướng hỗn hợp. Kỳ hạn giao ngay tháng 5 giảm thêm 1 USD, xuống 2.152 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 7 tăng 1 USD, lên 2.143 USD/tấn, các mức tăng/giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.

Trái lại, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York tiếp nối xu hướng tăng. Kỳ hạn giao ngay tháng 5 tăng thêm 2,25 cent, lên 182,55 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 7 tăng thêm 2,20 cent, lên 181,90 cent/lb, các mức tăng khá. Khối lượng giao dịch duy trì trên mức trung bình.

Giá cà phê phục hồi dù thị trường thận trọng hơn - Ảnh 1.

Giá cà phê trực tuyến sàn London, New York, BMF Cập nhật: 08/03/2023 lúc 10:42:05 (delay 10 phút)

Giá cà phê phục hồi dù thị trường thận trọng hơn - Ảnh 2.

Giá cà phê trực tuyến sàn London, New York, BMF Cập nhật: 08/03/2023 lúc 10:42:05 (delay 10 phút)

Giá cà phê phục hồi dù thị trường thận trọng hơn - Ảnh 3.

Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên điều chỉnh tăng 100 đồng, lên dao động trong khung 47.500 - 47.900 đồng/kg.

Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên điều chỉnh tăng 100 đồng, lên dao động trong khung 47.500 - 47.900 đồng/kg. Trong đó, tỉnh Lâm Đồng có mức giá thấp nhất là 47.500 đồng/kg. Kế đến là Gia Lai và Đắk Nông với cùng mức 47.800 đồng/kg. Tương tự, giá cà phê tại tỉnh Đắk Lắk tăng lên mức 47.900 đồng/kg. Đây cũng là mức giá cao nhất ở thời điểm hiện tại.

Giá cà phê kỳ hạn biến động một cách thận trọng do lo ngại rủi tăng cao trước khả năng các quan chức Fed liên tục bày tỏ quan điểm sẽ mạnh tay với lãi suất điều hành để đẩy lùi lạm phát khi các báo cáo chỉ số kinh tế Mỹ tăng trưởng chưa thực sự lạc quan như kỳ vọng. USDX tăng mạnh đã đẩy lùi giá cả hàng hóa nói chung, giá vàng và dầu thô đảo chiều lao dốc trên các sàn hàng hóa phái sinh có tính thanh khoản cao nhưng giá cà phê vẫn tỏ ra vững vàng. Tỷ giá đồng Reais giảm nhẹ 0,54% xuống ở mức 1USD =  5,1940 R$ do lo ngại áp lực từ bên ngoài trước khả năng lãi suất USD sẽ tăng cao.

Giá cà phê Arabica đảo chiều tăng hồi phục sau khi báo cáo tồn kho của ICE – New York giảm xuống mức thấp nhất trong 2,5 tháng và sự hỗ trợ từ Colombia, nhà sản xuất Arabica chế biến ướt hàng đầu thế giới báo cáo xuất khẩu tháng 2 giảm 6%. Trong khi đó, giá cà phê Robusta có xu hướng hỗn hợp khi báo cáo tồn kho của ICE – London ngày hôm qua 07/03 đã giảm nhẹ 0,04%, xuống còn 73.710 tấn, nhưng vẫn đứng ở mức cao nhất trong 2,5 tháng.

Tháng 02/2023, giá cà phê Robusta và Arabica tiếp tục tăng mạnh do lo ngại thiếu hụt nguồn cung trong ngắn hạn. Tốc độ tăng giá cà phê được dự báo sẽ chậm lại do tồn kho tăng. Tính đến ngày 24/2/2023, tồn kho đạt chuẩn của sàn ICE London ghi nhận đã tăng thêm 0,23%, lên mức 67.180 tấn. Bên cạnh đó, nguồn cung sẽ sớm được bổ sung khi Indonesia bắt đầu bước vào vụ thu hoạch mới.

Trên sàn giao dịch London, ngày 28/02/2023, giá cà phê Robusta kỳ hạn giao tháng 3/2023, tháng 5/2023, tháng 7/2023 và tháng 9/2023 tăng lần lượt 3,9%, 5,2%, 5,8% và 6,1% so với ngày 28/01/2023, lên mức 2.133 USD/tấn; 2.121 USD/tấn; 2.099 USD/tấn và 2.067 USD/tấn.

Trên sàn giao dịch New York, ngày 28/02/2023, giá cà phê Arabica giao kỳ hạn tháng 3/2023, tháng 5/2023, tháng 7/2023 và tháng 9/2023 tăng lần lượt 9,7%, 8,7%, 7,9% và 7,6% so với ngày 28/01/2023, lên mức 186,45 Uscent/lb, 184,9 Uscent/lb, 182,75 Uscent/lb và 180,7 Uscent/lb.

Trên sàn giao dịch BMF của Brazil, ngày 28/02/2023, giá cà phê giao kỳ hạn tháng 3/2023 và tháng 5/2023 tăng lần lượt 1,5% và 6,5% so với ngày 28/01/2023, lên mức 233,05 Uscent/lb và 232,8 Uscent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2023 và tháng 9/2023 cùng tăng 9,8% so với ngày 28/01/2023, lên mức 229,2 Uscent/ lb và 225,95 Uscent/lb.

Tháng 2/2023, giá cà phê Robusta tại thị trường nội địa tăng mạnh. Ngày 28/02/2023, giá cà phê Robusta tăng từ 4.300 – 4.500 đồng/kg (tùy từng khu vực khảo sát) so với ngày 28/01/2023. Tại tỉnh Gia Lai và Đắk Nông, giá cà phê Robusta cùng tăng 4.300 đồng/kg, lên mức 47.100 đồng/kg; tại tỉnh Đắk Lắk, giá cà phê Robusta tăng 4.400 đồng/kg, lên mức 47.200 đồng/kg; tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê tăng 4.500 đồng/kg, lên mức 46.700 đồng/kg.

Theo ước tính, xuất khầu cà phê của Việt Nam trong tháng 2/2023 đạt 180 nghìn tấn, trị giá 393 triệu USD, tăng 26,3% về lượng và tăng 26,5% về trị giá so với tháng 1/2023, so với tháng 2/2022 tăng 28,7% về lượng và tăng 22% về trị giá. Tuy nhiên, tính chung 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 323 nghìn tấn, trị giá 703 triệu USD, giảm 13,1% về lượng và giảm 14,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.

Tháng 2/2022, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam ước đạt mức 2.182 USD/tấn, tăng 0,2% so với tháng 1/2023, nhưng giảm 3,9% so với tháng 2/2022. Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam ước đạt mức 2.180 USD/tấn, giảm 1,7% so với cùng kỳ năm 2022.

Giá cà phê phục hồi dù thị trường thận trọng hơn - Ảnh 4.

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan

Giá cà phê phục hồi dù thị trường thận trọng hơn - Ảnh 5.

Theo khảo sát đầu tháng 2, nguồn cung cà phê thế giới trong niên vụ 2022/2023 có thể thiếu hụt khoảng 4,15 triệu bao. Theo Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), xuất khẩu cà phê toàn cầu 3 tháng đầu tiên của niên vụ cà phê hiện tại 2022/2023 đã giảm 2,8% xuống 30,27 triệu bao so với 31,14 triệu bao cùng kỳ niên vụ 2021/2022.

ICO giữ nguyên dự báo về sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2022/2023 ở mức 167,2 triệu bao, giảm 2,1% so với 170,8 triệu bao của niên vụ trước. Trong khi tiêu thụ cà phê thế giới được dự báo sẽ tăng 3,3% lên 170,3 triệu bao trong niên vụ 2022-2023, so với 164,9 triệu bao của vụ 2020/2021. Như vậy, tiêu thụ dự kiến sẽ vượt sản xuất 3,1 triệu bao.

Sản lượng niên vụ cà phê năm nay của Việt Nam cũng được dự báo giảm. Theo Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam (VICOFA), sản lượng niên vụ 2022 - 2023 dự kiến giảm khoảng 10 - 15% so với niên vụ 2021 - 2022 xuống khoảng 1,47 triệu tấn. Nguyên nhân chủ yếu đến từ diện tích trồng cà phê có xu hướng giảm do người dân chuyển sang các cây trồng khác có hiệu quả hơn như sầu riêng, bơ, hoặc trồng xen canh trong vườn.

Bên cạnh yếu tố giá cà phê giới tăng do được hỗ trợ bởi các thông tin thâm hụt cung - cầu, theo các chuyên gia, các chi phí đầu vào như phân bón, thuốc trừ sâu, lao động đều tăng cao đã đẩy giá cà phê trong nước tăng cao hơn.

Tuy nhiên, trong ngắn hạn, Cục Xuất nhập khẩu cho rằng tốc độ tăng giá cà phê sẽ chậm lại do tồn kho tăng. Tính đến ngày 24/2, tồn kho đạt chuẩn của sàn ICE London ghi nhận đã tăng thêm 0,23%, lên mức 67.180 tấn. Bên cạnh đó, nguồn cung sẽ sớm được bổ sung khi Indonesia bắt đầu bước vào vụ thu hoạch mới.

Về dài hạn, các chuyên gia dự báo nhu cầu hạt cà phê trong năm nay sẽ còn tăng mạnh, thậm chí cao hơn năm 2022. Đặc biệt, nếu thị trường Brazil tiếp tục bị ảnh hưởng bởi tình hình thời tiết xấu thì giá sẽ có thể bằng với cao của năm ngoái thậm chí hơn. Chiến lược của các nhà mua lớn là bắt đầu gom hàng ngay từ đầu vụ. Hiện tại nguồn cung Arabica ở Việt Nam gần như đã được mua hết.

Cà phê của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Đức trong tháng 1/2023, chiếm 15,1% trong tổng lượng và chiếm 13,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước, đạt 21.487 tấn, tương đương 42,34 triệu USD, giá 1.970,6 USD/tấn, giảm 32% về lượng, giảm 30,9% về kim ngạch nhưng tăng 1,7% về giá so với tháng 12/2022; giảm 28,6% về lượng, giảm 34,6% kim ngạch và giảm 8,4% so với tháng 1/2022.

Xuất khẩu cà phê sang Italia đứng thứ 2 thị trường, tăng 30,5% về lượng, tăng 27% kim ngạch, nhưng giảm 2,6% về giá so với cùng kỳ, đạt 17.274 tấn, tương đương 35,71 triệu USD, giá 2.067,3 USD/tấn, chiếm trên 12% trong tổng lượng và chiếm 11,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước.

Xuất khẩu cà phê sang thị trường Bỉ giảm mạnh 61% về lượng và giảm 48,2% kim ngạch so với tháng 1/2022, đạt 9.282 tấn, tương đương 23,91 triệu USD, giá trung bình 2.576,4 USD/tấn, chiếm trên 6,5% trong tổng lượng và chiếm 7,7% trong tổng kim ngạch.


Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục