Giá cà phê đi ngang, thị trường lặng sóng

06/03/2023 14:51 GMT+7
Các thị trường cà phê kỳ hạn tiếp tục điều chỉnh, cân đối vị thế đầu cơ khi báo cáo của Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai (CFTC) được cập nhật liên tiếp và mức tồn kho trên cả hai sàn đã có sự cải thiện. Trong nước, giá cà phê hôm nay (6/3) không có biến động mới so với ghi nhận vào cuối tuần trước.

Giá cà phê hôm nay 6/3: Thị trường lặng sóng trong ngày đầu tuần

Tính chung cả tuần qua, thị trường London có 3 phiên tăng và 2 phiên giảm. Giá cà phê Robusta kỳ hạn giao ngay tháng 5 tăng tất cả 11 USD, tức tăng 0,51 %, lên 2.162 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 7 tăng tất cả 13 USD, tức tăng 0,61 %, lên 2.150 USD/tấn, các mức tăng nhẹ. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.

Trái lại, thị trường New York kéo dài chuỗi giảm trong suốt cả tuần. Giá cà phê Arabica kỳ hạn giao ngay tháng 5 giảm tất cả 9,85 cent, tức giảm 5,25 %, xuống 17,85 cent/lb, và kỳ hạn giao tháng 7 giảm tất cả 8,80 cent, tức giảm 4,73 %, còn 177,20 cent/lb, các mức giảm khá mạnh. Khối lượng giao dịch khá cao trên mức trung bình.

Giá cà phê đi ngang, thị trường lặng sóng - Ảnh 1.

Giá cà phê trực tuyến sàn London, New York, BMF. Cập nhật: 06/03/2023 lúc 14:30:01 (delay 10 phút)

Giá cà phê đi ngang, thị trường lặng sóng - Ảnh 2.

Giá cà phê trực tuyến sàn London, New York, BMF. Cập nhật: 06/03/2023 lúc 14:30:01 (delay 10 phút)

Giá cà phê đi ngang, thị trường lặng sóng - Ảnh 3.

Giá cà phê nhân xô tại thị trường Tây Nguyên hôm nay (6/3) không có biến động mới so với ghi nhận vào cuối tuần trước.

Giá cà phê nhân xô tại thị trường Tây Nguyên hôm nay (6/3) không có biến động mới so với ghi nhận vào cuối tuần trước. Hiện tại, các tỉnh trọng điểm trong nước đang thu mua cà phê trong khoảng 47.600 - 48.000 đồng/kg. Trong đó, Lâm Đồng đang là địa phương có mức giá thấp nhất với 47.600 đồng/kg. Kế đó là hai tỉnh Gia Lai và Đắk Nông với cùng mức 47.900 đồng/kg. Tương tự, giá cà phê tại tỉnh Đắk Lắk cũng ổn định tại mốc 48.000 đồng/kg trong hôm nay.

Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) báo cáo xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 1 đã giảm 13,96% so với tháng trước, đã góp phần lũy kế xuất khẩu cà phê trong 4 tháng đầu tiên của niên vụ hiện tại chỉ đạt tổng cộng 39,9 triệu bao, giảm 5,96% so với cùng kỳ niên vụ trước. Cũng theo ICO. xuất khẩu cà phê toàn cầu trong 3 tháng đầu niên vụ cà phê hiện tại 2022/23 đã giảm 2,8% xuống 30,27 triệu bao so với 31,14 triệu bao cùng kỳ niên vụ 2021/2022. Đây là nguyên nhân thúc đẩy giá cà phê kỳ hạn thế giới tái lập mức cao mới hôm 23/02.

Trong khi đó, tồn kho cà phê trên hai sàn của ICE theo dõi được bổ sung rất đáng kể từ ngày đó, do giá cả hồi phục đã kích thích giới thương nhân tích cực đưa cà phê về hai sàn tham giá bán đấu giá đã khiến giá cà phê đảo chiều suy yếu trở lại và báo cáo xuất khẩu cà phê Arabica chế biến ướt chất lượng cao từ khu vực Trung Mỹ cũng gia tăng mạnh mẽ đã góp phần xoa dịu mối lo thiếu hụt nguồn cung trong ngắn hạn.

Tuy nhiên, các báo cáo chỉ số kinh tế Mỹ vẫn chưa thể hiện sự khả quan khiến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) càng khó khăn trong việc kiểm soát đà tăng của lạm phát với biện pháp duy trì mức lãi suất cao. Giới đầu cơ Phố Wall vẫn suy đoán Fed sẽ mạnh tay tại các phiên họp điều hành chính sách tiền tệ sắp tới khiến lo ngại rủi ro còn tăng cao hơn nữa.

Tính đến thứ sáu ngày 03/03, tồn kho Robusta được sàn London chứng nhận và theo dõi cấp phát đã tăng 4.710 tấn, tức tăng 7,01 % so với một tuần trước đó, lên đăng ký ở mức 72.890 tấn (tương đương  1.214.833 bao, bao 60 kg), ghi nhận hai tuần liên tiếp có mức tồn kho tăng khá mạnh.

Giá cà phê đi ngang, thị trường lặng sóng - Ảnh 4.

Tháng 2/2022, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam ước đạt mức 2.182 USD/tấn, tăng 0,2% so với tháng 1/2023, nhưng giảm 3,9% so với tháng 2/2022.

Tháng 02/2023, giá cà phê Robusta và Arabica tiếp tục tăng mạnh do lo ngại thiếu hụt nguồn cung trong ngắn hạn. Tốc độ tăng giá cà phê được dự báo sẽ chậm lại do tồn kho tăng. Tính đến ngày 24/2/2023, tồn kho đạt chuẩn của sàn ICE London ghi nhận đã tăng thêm 0,23%, lên mức 67.180 tấn. Bên cạnh đó, nguồn cung sẽ sớm được bổ sung khi Indonesia bắt đầu bước vào vụ thu hoạch mới. 

Trên sàn giao dịch London, ngày 28/02/2023, giá cà phê Robusta kỳ hạn giao tháng 3/2023, tháng 5/2023, tháng 7/2023 và tháng 9/2023 tăng lần lượt 3,9%, 5,2%, 5,8% và 6,1% so với ngày 28/01/2023, lên mức 2.133 USD/tấn; 2.121 USD/tấn; 2.099 USD/tấn và 2.067 USD/tấn.

Trên sàn giao dịch New York, ngày 28/02/2023, giá cà phê Arabica giao kỳ hạn tháng 3/2023, tháng 5/2023, tháng 7/2023 và tháng 9/2023 tăng lần lượt 9,7%, 8,7%, 7,9% và 7,6% so với ngày 28/01/2023, lên mức 186,45 Uscent/lb, 184,9 Uscent/lb, 182,75 Uscent/lb và 180,7 Uscent/lb.

Trên sàn giao dịch BMF của Brazil, ngày 28/02/2023, giá cà phê giao kỳ hạn tháng 3/2023 và tháng 5/2023 tăng lần lượt 1,5% và 6,5% so với ngày 28/01/2023, lên mức 233,05 Uscent/lb và 232,8 Uscent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2023 và tháng 9/2023 cùng tăng 9,8% so với ngày 28/01/2023, lên mức 229,2 Uscent/ lb và 225,95 Uscent/lb.

Tháng 2/2023, giá cà phê Robusta tại thị trường nội địa tăng mạnh. Ngày 28/02/2023, giá cà phê Robusta tăng từ 4.300 – 4.500 đồng/kg (tùy từng khu vực khảo sát) so với ngày 28/01/2023. Tại tỉnh Gia Lai và Đắk Nông, giá cà phê Robusta cùng tăng 4.300 đồng/kg, lên mức 47.100 đồng/kg; tại tỉnh Đắk Lắk, giá cà phê Robusta tăng 4.400 đồng/kg, lên mức 47.200 đồng/kg; tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê tăng 4.500 đồng/kg, lên mức 46.700 đồng/kg.

Theo ước tính, xuất khầu cà phê của Việt Nam trong tháng 2/2023 đạt 180 nghìn tấn, trị giá 393 triệu USD, tăng 26,3% về lượng và tăng 26,5% về trị giá so với tháng 1/2023, so với tháng 2/2022 tăng 28,7% về lượng và tăng 22% về trị giá. Tuy nhiên, tính chung 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 323 nghìn tấn, trị giá 703 triệu USD, giảm 13,1% về lượng và giảm 14,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. 

Tháng 2/2022, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam ước đạt mức 2.182 USD/tấn, tăng 0,2% so với tháng 1/2023, nhưng giảm 3,9% so với tháng 2/2022. Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam ước đạt mức 2.180 USD/tấn, giảm 1,7% so với cùng kỳ năm 2022.

Trong năm 2022, lượng cà phê xuất khẩu của nước ta tăng gần 14% so với năm 2021, trong khi sản lượng chỉ tăng 9% từ 1,74 triệu tấn lên 1,89 triệu tấn (theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp Mỹ). Thậm chí, sản lượng cà phê thu hoạch vào cuối năm 2022 bị dự báo giảm từ 10% đến 15% do mưa lớn ảnh hưởng đến quá trình thu hoạch. Như vậy, tổng nguồn cung xuất khẩu trong năm nay có thể sẽ thấp hơn so với năm ngoái, và điều này sẽ khiến ngành xuất khẩu cà phê khó duy trì được mức tăng trưởng như năm 2022.

Bên cạnh đó, Fed đã giảm dần đà tăng lãi suất trong năm 2023, với mức tăng 25 điểm cơ bản trong lần điều chỉnh đầu tiên của năm nay và nhiều khả năng sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng này vào tháng 3, sau khi các quan chức của Fed đều có quan điểm cứng rắn về lãi suất, với mục tiêu đưa lạm phát về mức 2%. Điều này sẽ khiến sự chênh lệch tỷ giá thu hẹp lại so với thời điểm tăng mạnh lãi suất trong năm 2022, làm hạn chế phần nào nhu cầu xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.

Những khó khăn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu cà phê trong năm 2023 của Việt Nam không chỉ dừng lại ở thách thức về nguồn cung mà đó còn là vấn đề về chất lượng cũng như nguồn gốc cà phê. Vào cuối năm 2022, Liên minh Châu Âu (EU) ra sắc lệnh nghiêm cấm nhập khẩu cà phê có liên quan đến nạn chặt phá rừng đã gây ra những lo ngại về lượng cà phê Việt Nam có thể xuất sang thị trường này và đặt ra bài toán về việc phát triển cà phê một cách bền vững hơn.

Hơn nữa, việc EU siết chặt quy định dư lượng thuốc trừ sâu đối với các loại hạt, trong đó có cà phê là 0,1 mg/kg cũng là một khó khăn, đòi hỏi nông dân phải điều chỉnh phương thức sản xuất để có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn mới phục vụ hoạt động xuất khẩu.

Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục