Ngân hàng số: Thay đổi thói quen người dùng cần sự tiên phong của những “ông lớn”
Định nghĩa ngân hàng số?
Phát biểu tại tọa đàm truyền thông với chủ đề “Ngân hàng số thúc đẩy phát triển những hệ sinh thái đặc thù”, chuyên gia tài chính – ngân hàng TS. Cấn Văn Lực cho biết, khái niệm ngân hàng số đang bị nhiều người nhầm lẫn với khái niệm số hóa hoạt động ngân hàng truyền thống. Theo cách hiểu số hóa hoạt động ngân hàng truyền thống, các ngân hàng sẽ số hóa tất cả hoạt động và dịch vụ ngân hàng hiện hữu. Tuy nhiên, cách hiểu này là không đủ.
"Ngân hàng số còn là mô hình kinh doanh mới, một cách tiếp cận mới với những giá trị mới, thay vì chỉ số hóa những thứ đã có", ông Lực nhấn mạnh. Ông dẫn định nghĩa mà ngân hàng UOB đưa ra và cho rằng đây là khái niệm khá đầy đủ, tức ngân hàng số là tương tác với nhau về dịch vụ tài chính trong thời đại công nghệ số.
Ông Cấn Văn Lực
Dưới góc nhìn của một ngân hàng thương mại, ông Trần Hoài Nam, Giám đốc Ngân hàng Số TPBank cũng phải thừa nhận rằng, định nghĩa ngân hàng số là một định nghĩa rất rộng. Với mỗi ngân hàng, thậm chí với mỗi người đều tự có những định nghĩa riêng.
“Tuy nhiên, với chúng tôi, ngân hàng số không phải là Internet Banking hay Online Banking, không phải là công nghệ ngân hàng, cũng không phải là kênh thay thế”, ông Nam thông tin.
Vị lãnh đạo nhà băng này cho hay, “Với chúng tôi, ngân hàng số là một mô hình kinh doanh ngân hàng, bao gồm 4 trụ cột là sản phẩm mới, cách thức bán, kênh tiếp cận, cơ chế vận hành, phục vụ khách hàng và cơ chế kiểm soát rủi ro. Tất cả đều được trợ giúp bởi các nền tảng công nghệ mới.
Ngân hàng số được cấu thành bởi ngân hàng và số, giúp phục vụ tất cả các mong muốn giao dịch trên kênh số để khách hàng không bị giới hạn bởi không gian, thời gian và có thể giao dịch trong một khoảng thời gian ngắn nhất có thể”.
Ông Trần Hoài Nam
Lấy minh họa từ sự giống và khác nhau giữa ngân hàng số và ví điện tử. Ông Trần Hoài Nam cho rằng, hai loại hình có sự giống nhau đều là một mô hình kinh doanh, tức có đầu tư và có kết quả.
Đối với ví điện tử, đây là 1 mô hình kinh doanh mới xuất hiện khoảng 7-8 năm trở lại đây, sử dụng công nghệ và nền tảng trung gian thanh toán nói trên để giải quyết các bài toán về thanh toán nhanh gọn online. Nôm na có thể hiểu ví điện tử giúp khách hàng có 1 tài khoản online với số tiền được đối ứng 1:1 với số dư của họ tại 1 tài khoản ngân hàng.
Như vậy, nếu so sánh các khái niệm này thì có thể thấy khái niệm Ví điện tử sẽ giống với khái niệm ngân hàng số nhiều về cách áp dụng các công nghệ để giúp khách hàng có 1 trải nghiệm trên các kênh số tốt hơn.
Còn để thấy điểm khác nhau thì như đã nói phía trên, Ví điện tử đang xoay quanh nhiều các dịch vụ trong hệ sinh thái thanh toán như chuyển tiền, thanh toán hoá đơn, top up, …
Trong khi đó, ngân hàng số ngoài khả năng có thể cung cấp các dịch vụ thanh toán tương tự như ví, ngân hàng số còn có nền tảng của 1 ngân hàng truyền thống khác để làm các dịch vụ tài chính khác như tín dụng, huy động, đầu tư, bảo hiểm hay trong các segment khác của SME hay Corp banking, sẽ còn nhiều các dịch vụ khác hơn.
Cần những “ông lớn” tạo ra làn sóng lớn
Nhìn nhận ngân hàng số là con đường phát triển tất yếu của các nhà băng. Trong đó, giá trị dữ liệu là tiền đề để phát triển. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Chiến Thắng, Giám đốc cao cấp ngân hàng số Ngân hàng VPBank, việc phát triển ngân hàng số sẽ phải đối mặt với không ít thách thức nhưng trong đó thách thức lớn nhất chính là niềm tin, thói quen của người dân.
Ông Thắng nói, “Tôi cho rằng, thách thức lớn nhất chính là niềm tin, thói quen khách hàng. Tôi đã từng được tham gia buổi nói chuyện của tỷ phú Jack Ma, người sáng lập tập đoàn Alibaba. Ông có chia sẻ rằng, trong những ngày đầu thành lập, ông đặt mục tiêu phải “phá” được thói quen cũ người dùng, xây dựng niềm tin và để làm được điều này thì phải mang lại lợi ích cho người dùng”.
Ông Nguyễn Chiến Thắng
Vậy, làm thế nào các ngân hàng Việt tạo được niềm tin của người dùng khi tiếp cận với các sản phẩm của mình?
Chia sẻ quan điểm về vấn đề này, ông Trần Hoài Nam, đại diện TPBank cho hay, đây thực sự là một câu hỏi rất khó. Ông Nam cho biết, những người làm ngân hàng như ông ngày nào cũng phải vắt tay lên trán để nghĩ cách tạo niềm tin khách hàng.
“Với một số doanh nghiệp, họ có thể tạo thói quen cho khách hàng bằng cách đưa ra một nguồn lợi ngay lập tức để khách hàng sử dụng và trải nghiệm sản phẩm dịch vụ, nói “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” là vì vậy. Có nghĩa là, để thay đổi thói quen của khách hàng thì họ đưa ra cho khách hàng một nguồn lời, nếu khách hàng sử dụng dịch vụ A sẽ được tặng quà B. Điều này sẽ khuyến khích khách hàng sử dụng.
Tuy nhiên, đối với ngân hàng, việc chạy theo cách này thì rất khó. Theo đó, giải pháp của chúng tôi là chọn một thị trường ngách rõ ràng với một sản phẩm rõ ràng chứ không đi vào thị trường rộng”, vị này nhấn mạnh.
Ngoài ra, để thay đổi thói quen người dùng, ông Nam còn cho rằng, cần những “ông lớn” tạo ra làn sóng lớn để lôi kéo khách hàng.
Ông Trần Quốc Anh, Giám đốc khối ngân hàng cá nhân Ngân hàng HDBank thì cho rằng, phía NHNN cũng có những quy định để tạo niềm tin trong việc thanh toán không dùng tiền mặt. Năm trước, NHNN đã đưa ra Thông tư 19, trong đó quy định khi có sự cố liên quan đến khách hàng, nếu khách hàng chủ động chứng minh bị lợi dụng thì ngân hàng sẽ phải ứng trước cho khách hàng, còn kết quả điều tra sau đó như nào thì giải quyết sau.
“Mỗi ngân hàng một cách khác nhau, riêng đối với HDBank, chúng tôi cố gắng xử lý các tình huống nhanh nhất có thể, rủi ro xảy ra cũng được xử lý một cách chu đáo”, ông Trần Quốc Anh thông tin thêm.