Robusta biến động nhẹ, cà phê nội giảm tiếp 100 đồng/kg

01/06/2023 14:33 GMT+7
Robusta biến động nhẹ. Các quỹ và đầu cơ đã quay lại tăng mua khi USDX có lợi để rót vốn vào các sàn hàng hóa. Giá cà phê hôm nay (1/6) tại thị trường trong nước giảm tiếp 100 đồng/kg.

Giá cà phê hôm nay 1/6: Giảm tiếp 100 đồng/kg

Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London có xu hướng hỗn hợp. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm thêm 6 USD, xuống 2.556 USD/tấn, trong khi kỳ hạn giao tháng 9 không thay đổi, vẫn đứng ở 2.520 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 11 tăng 2 USD, lên 2.465 USD/ tấn, các mức tăng/giảm nhẹ`. Khối lượng giao dịch khá cao trên mức trung bình.

Trái lại, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York đảo chiều tăng.  Kỳ hạn giao ngay tháng 7 tăng 1,55 cent, lên 178,65 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 9 tăng 1,00 cent, lên 175,85 cent/lb, các mức tăng đáng kể. Khối lượng giao dịch duy trì rất cao trên mức trung bình.

Robusta biến động nhẹ, cà phê nội giảm tiếp 100 đồng/kg - Ảnh 1.

Giá cà phê trực tuyến sàn London, New York, BMF Cập nhật: 01/06/2023 lúc 13:48:01 (delay 10 phút)

Robusta biến động nhẹ, cà phê nội giảm tiếp 100 đồng/kg - Ảnh 2.

Giá cà phê trực tuyến sàn London, New York, BMF Cập nhật: 01/06/2023 lúc 13:48:01 (delay 10 phút)

Robusta biến động nhẹ, cà phê nội giảm tiếp 100 đồng/kg - Ảnh 3.

Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên giảm 100 đồng, xuống dao động trong khung 60.200 - 60.800 đồng/kg.

Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên giảm 100 đồng, xuống dao động trong khung 60.200 - 60.800 đồng/kg. Cụ thể, tỉnh Lâm Đồng có mức giá thấp nhất là 60.200 đồng/kg. Kế đến là tỉnh Gia Lai với giá 60.500 đồng/kg. Cùng thời điểm khảo sát, tỉnh Đắk Lắk có giá thu mua là 60.700 đồng/kg. Đắk Nông ghi nhận mức giao dịch là 60.800 đồng/kg - cao nhất trong các địa phương được ghi nhận.

Giá cà phê kỳ hạn diễn biến trái chiều, trong khi giá cà phê Robusta dao động lưỡng lự theo chiều hướng ổn định thì giá cà phê Arabica đã thu hút sự tăng mua của các quỹ và đầu cơ khi có mức cách biệt khá hấp dẫn và tồn kho ICE quản lý nhiều tháng qua không ghi nhận có sự bổ sung nào.

Bộ phận nông nghiệp nước ngoài (FAS) trực thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã điều chỉnh sản lượng cà phê Arbica chế biến ướt chất lượng cao của Colombia trong niên vụ hiện tại 2022/2023 giảm bớt 10,32% xuống ở mức 11,3 triệu bao và dự báo đã xuất khẩu 10,8 triệu bao trong cùng niên vụ, phản ánh thời tiết khắc nghiệt và mưa quá nhiều do hiện tượng thời tiết La Nina kéo dài trong suốt 18 tháng qua.

Trong quá khứ, Colombia đã từng đạt sản lượng 14,6 triệu bao trong niên vụ 2016/2017 và đã đặt mục tiêu sản lượng 15 triệu bao/năm. Tuy nhiên, trong vài năm qua cà phê Arabica chế biến ướt chất lượng cao của Colombia đã vắng bong trên sàn ICE – New York do không đủ cung ứng trực tiếp cho khách hàng truyền thống với mức giá rất cao so với giá kỳ hạn. Sự thiếu hụt cà phê Arbica chế biến ướt của Colombia đã được bổ sung bằng cà phê Arbica của Brazil với mức giảm trừ cố định rất đáng kể.

Thời tiết các vùng cà phê Indonesia mưa rất to và dự báo sẽ có bão gây cản trở vụ thu hoạch đang diễn ra. Tuy vậy, thông tin này vẫn chưa tác động lên thị trường kỳ hạn London.

Những ngày giữa tháng 5/2023, giá cà phê Robusta tăng do nguồn cung thiếu hụt trong ngắn hạn. Điều này đã góp phần hỗ trợ xu hướng tăng giá cà phê Robusta. 

Sản lượng cà phê Robusta của Indonesia vụ mới 2023/24 đạt dưới 10 triệu bao, mức thấp nhất 10 năm. Trong khi theo Dữ liệu của Trung tâm Nghiên cứu Cepea thuộc Đại học São Paulo Brazil, hiện người dân Brazil đã thu hoạch xấp xỉ 30% sản lượng vụ mới và họ không vội bán hàng ra cho dù tỷ giá tiền tệ đang có lợi. Theo kết quả khảo sát lần II của Conab - Brazil, sản lượng cà phê Robusta vụ mùa năm nay ước đạt 16,81 triệu bao, giảm 7,6% so với vụ mùa trước do thời tiết không thuận lợi.

Trên sàn giao dịch London, ngày 19/5/2023, giá cà phê Robusta giao kỳ hạn tháng 7/2023 và tháng 1/2024 tăng lần lượt 2,8% và 1,8% so với ngày 8/5/2023, lên mức 2.540 USD/tấn và 2.424 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 9/2023 và tháng 11/2023 cùng tăng 2,1% so với ngày 8/5/2023, lên mức 2.498 USD/tấn và 2.458 USD/tấn.

Trên sàn giao dịch New York, ngày 19/5/2023, giá cà phê Arabica giao kỳ hạn tháng 7/2023 và tháng 9/2023 cùng giảm 0,7% so với ngày 8/5/2023, xuống mức 186,65 Uscent/ lb và 184,25 Uscent/lb; kỳ hạn giao tháng 12/2023 và tháng 3/2024 cùng giảm 0,8% so với ngày 8/5/2023, xuống mức 182,35 Uscent/lb và 182,2 Uscent/lb.

Trên sàn giao dịch BMF của Brazil, ngày 19/5/2023, giá cà phê giao kỳ hạn tháng 7/2023, tháng 9/2023 và tháng 12/2023 giảm lần lượt 3,6%, 1,2% và 0,9% so với ngày 8/5/2023, xuống mức 225,05 Uscent/lb; 222,2 Uscent/lb và 223,3 Uscent/lb.

Những ngày giữa tháng 5/2023, giá cà phê Robusta tại thị trường nội địa tăng mạnh so với đầu tháng. Ngày 19/5/2023, giá cà phê Robusta tăng từ 3.900 – 4.200 đồng/ kg (tùy từng khu vực khảo sát) so với ngày 8/5/2023. Tại các tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai, giá cà phê tăng từ 3.900 – 4.000 đồng/kg, lên mức 57.800 đồng/kg; tại tỉnh Đắk Nông, giá cà phê tăng 4.000 đồng/kg, lên mức 57.900 đồng/kg; tại tỉnh Lâm Đồng, giá cà phê tăng 4.200 đồng/kg, lên mức 57.500 đồng/kg.

Robusta biến động nhẹ, cà phê nội giảm tiếp 100 đồng/kg - Ảnh 4.

Những ngày giữa tháng 5/2023, giá cà phê Robusta tại thị trường nội địa tăng mạnh so với đầu tháng.

Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong tháng 4/2023 đạt 5,11 nghìn tấn, trị giá 15,02 triệu USD, giảm 8,6% về lượng và giảm 9,9% về trị giá so với tháng 3/2023, so với tháng 4/2022 giảm 12,2% về lượng và giảm 22,1% về trị giá. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê của nước ta sang thị trường Trung Quốc đạt 13,42 nghìn tấn, trị giá 40,38 triệu USD, giảm 7,4% về lượng và giảm 9,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.

Diễn biến giá: Tháng 4/2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đạt mức 2.940 USD/tấn, giảm 1,5% so với tháng 3/2023 và giảm 11,3% so với tháng 4/2022. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của nước ta sang thị trường Trung Quốc đạt mức 3.006 USD/tấn, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm 2022.

Về cơ cấu chủng loại: Tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm ngoái, Việt Nam giảm xuất khẩu cà phê chế biến sang Trung Quốc, nhưng tăng xuất khẩu cà phê Robusta và Arabica. Số liệu thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩu cà phê chế biến sang Trung Quốc đạt 24,23 triệu USD trong 4 tháng đầu năm nay, giảm 16,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngược lại, Việt Nam tăng xuất khẩu cà phê Robusta và Arabica, mức tăng lần lượt 4% và 1.077,6% về lượng, xét về trị giá tăng 4,8% và 271,3%.

Giá cà phê hai sàn tiếp tục tăng, cà phê nội cán mốc 60.000 đồng/kg - Ảnh 5.

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan

Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục