Thống đốc Nguyễn Thị Hồng: Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 98% số lượng nhưng chỉ tiếp cận 20% dư nợ toàn hệ thống

An Linh
31/05/2025 16:34 GMT +7
“Một con số đề cập trong báo cáo của Bộ Tài chính là số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm gần 98% các doanh nghiệp nhưng chưa tiếp cận đến 20% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng”, bà Hồng nêu.

Vấn đề được Thống đốc NHNN Việt Nam nêu ra khi tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Toạ đàm Chính phủ với doanh nghiệp, hiệp hội về thực hiện Nghị quyết 68 phát triển kinh tế tư nhân diễn ra sáng 31/5.

Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, liên quan đến khó khăn của doanh nghiệp tư nhân, hiện nổi lên hai vấn đề lớn là tín dụng, lãi suất.

Liên quan đến tín dụng, hiện số dư nợ tín dụng cho khu vực tư nhân và tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa trên tổng dư nợ toàn nền kinh tế rất khác nhau.

“Trước đây số dư nợ tín dụng trong khối doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng chủ yếu thì nay, dư nợ tín dụng cho khu vực tư nhân đã chiếm đến 92-93% trong tổng số dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế”, bà Hồng nói.

Theo bà này, con số này phản ánh sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và cũng phản ánh sự cố gắng, nỗ lực của hệ thống ngân hàng.

Liên quan đến dư nợ tín dụng của doanh nghiệp nhỏ và vừa đang rất thấp, báo cáo của Bộ Tài chính là số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm gần 98% các doanh nghiệp nhưng chưa tiếp cận đến 20% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng. 

Doanh nghiệp có quy mô nhỏ, siêu nhỏ, sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế, năng suất lao động thấp, bộ phận doanh nghiệp thông tin chưa minh bạch… Đây chính là nguyên nhân lý giải việc họ khó có thể chứng minh được khả năng hiệu quả, trả nợ khi vay ngân hàng. 

Từ phía ngành ngân hàng, chúng tôi sẽ rất quan tâm và tiếp tục chỉ đạo các đơn vị trong ngành để đồng hành cùng doanh nghiệp. Chúng tôi cũng rất mong Chính phủ quan tâm chỉ đạo thực hiện các giải pháp, để chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp được vay vốn thực chất hơn và phát triển các phân khúc khác của thị trường tài chính như là ý kiến của một số đại biểu. 

Theo bà Hồng, có như vậy, tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới tăng lên được, vòng quay tín dụng về hệ thống ngân hàng sẽ tăng lên và vốn tín dụng sẽ đến được nhiều doanh nghiệp hơn.

Về vấn đề lãi suất, thời gian qua, ngay cả khi lãi suất thế giới tăng cao, ngành ngân hàng cố gắng điều hành, điều tiết để giảm liên tục mặt bằng lãi suất cho vay. Các tổ chức tín dụng trong hệ thống rất trách nhiệm và rất nhân văn trong việc giảm lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân. 

Tổng số tiền hỗ trợ lên tới 60.000 – 70.000 tỷ đồng. Một số gói tín dụng như thuỷ sản, cho vay mua nhà cho người có thu nhập thấp, v.v… đều là nguồn lực tài chính của các tổ chức tín dụng, không phải từ ngân sách.

Thực tế một số doanh nghiệp phản ánh ở đây mất chi phí, thời gian trong việc làm thủ tục về đầu tư sản xuất kinh doanh và quá trình này thường kéo dài. NHNN thấy rằng đây cũng là nguyên nhân một số doanh nghiệp kêu lãi suất phải trả cao. 

Với việc tinh gọn bộ máy và sửa đổi các luật như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu,… mà Chính phủ đang thực hiện theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, chắc chắn thủ tục sẽ được rút ngắn, giúp vòng quay vốn nhanh hơn và các doanh nghiệp sẽ tiếp cận được, thuận lợi hơn cho ngân hàng giảm lãi suất.

Vấn đề tín dụng, lãi suất là vấn đề luôn được quan tâm, và có thể nói các doanh nghiệp, người dân phản ánh qua rất nhiều thời kỳ, chứ không phải riêng một nhiệm kỳ nào cả. 

NHNN là ngân hàng Trung ương của nền kinh tế, bên cạnh việc quản lý cho vay của các tổ chức tín dụng, chúng tôi phải điều hành chính sách tiền tệ để góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối nên ngành ngân hàng không thể đạt được nhiều mục tiêu cùng một lúc, yêu cầu cùng một lúc. 

Đây là việc rất khó, rất áp lực, khi nền kinh tế của chúng ta có độ mở cửa lớn, khó lường, phức tạp. Nhưng trong nhiều năm, NHNN đã cố gắng điều hành để góp phần ổn định thị trường tiền tệ ngoại hối, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này vô cùng quan trọng với môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như những cái này bất ổn thì doanh nghiệp sẽ vô cùng khó khăn.