World Bank chỉ ra "đích đến" của gói hỗ trợ tín dụng
Ngân hàng Thế giới (World Bank - WB) vừa đưa ra những đánh giá và khuyến nghị về tác động của dịch bệnh Covid-19 trong lĩnh vực ngân hàng.
Gói hỗ trợ tín dụng chủ yếu dành cho doanh nghiệp lớn
Đại dịch toàn cầu đã ảnh hưởng đến nền kinh tế thực, từ cả hai phía cung và cầu, và các chính sách tài chính được coi là một phần của giải pháp chứ không phải là gốc rễ của các vấn đề hiện nay. Ở hầu hết các quốc gia, kể cả Việt Nam, Ngân hàng Trung ương đã nới lỏng các chính sách tiền tệ và tín dụng để giải cứu doanh nghiệp và hộ gia đình bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên, lĩnh vực tài chính không tránh khỏi cuộc khủng hoảng Covid - 19 vì sự suy giảm hiệu quả kinh doanh và tiêu dùng của hộ gia đình cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến ngành ngân hàng và thị trường vốn.
Kể từ khi dịch Covid -19 bùng phát, dư nợ ở hầu hết các lĩnh vực đều giảm, trong đó đáng kể nhất là dịch vụ, thương mại, du lịch và vận tải. Tốc độ tăng trưởng tín dụng ở nhiều ngân hàng thương mại đứng yên hoặc giảm do nhu cầu tín dụng thấp từ cả hai phân khúc cho vay doanh nghiệp và tiêu dùng.
Trong 3 tháng đầu năm, dư nợ tín dụng cho nền kinh tế chỉ tăng 0,68%, mức tăng trưởng thấp nhất trong 5 năm qua. Dư nợ tín dụng cho nền kinh tế hiện vào khoảng 8.251 nghìn tỷ đồng (tương đương khoảng 350 tỷ USD), trong đó 54% dành cho các doanh nghiệp.
Về phía người tiêu dùng, nhu cầu tín dụng cũng giảm theo tốc độ tăng trưởng của doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ở mức 4,7%/năm trong hai tháng đầu năm và tăng chậm hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2019 (12,1%) .
Kết quả huy động vốn của các ngân hàng cũng tăng chậm, tăng trưởng tiền gửi và tổng lượng cung tiền (M2) lần lượt chỉ ở mức 0,51% và 1,55% (cùng kỳ năm ngoái tăng 1,72% và 2,54%). Nguyên nhân do doanh thu ở các doanh nghiệp giảm, nên phải rút tiền gửi ngân hàng để trang trải chi phí hoạt động. Tiền gửi của cá nhân có khả năng giảm vì thu nhập hàng tháng thấp hơn khi việc làm của họ bị đe dọa hoặc không chắc chắn.
Theo đánh giá của WB, dù thời gian qua Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành nhiều biện pháp chính sách hỗ trợ. Chẳng hạn, tháng 3 năm 2020, NHNN đã cắt giảm lãi suất cơ bản từ 0,5 đến 1% và giảm trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn từ 0,25% đến 0,3%, và giảm trần lãi suất cho vay ngắn hạn trong những lĩnh vực ưu tiên 0,5%, đồng thời tăng lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND.
Chính phủ đã công bố gói tín dụng trị giá 250 nghìn tỷ đồng (khoảng 4% GDP năm 2019) trong ngành ngân hàng, được thiết kế để hỗ trợ các doanh nghiệp và hộ gia đình bị ảnh hưởng thông qua cơ cấu lại các khoản vay của những doanh nghiệp bị ảnh hưởng và miễn, giảm lãi suất.
"Những chính sách hỗ trợ này đã và sẽ góp phần giảm bớt khó khăn tạm thời cho những doanh nghiệp đang phải đối mặt với các vấn đề về dòng tiền và trả nợ vay", chuyên gia WB đánh giá.
Dẫu vậy, WB cũng cho rằng, gói hỗ trợ tín dụng chủ yếu nhắm đến khu vực chính thức, đáng chú ý nhất là các doanh nghiệp lớn, vì dư nợ tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không nhiều, mặc dù đã tăng lên trong những năm qua.
Tuy nhiên, khi các ngân hàng thực hiện những biện pháp hỗ trợ sẽ làm tăng áp lực lên tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) và cuối cùng là làm giảm lợi nhuận chung của ngân hàng.
WB nhấn mạnh, cần có sự giám sát chặt chẽ vì các ngân hàng cũng có thể phải chịu mức sinh lời thấp hơn và khả năng rủi ro lớn hơn do tăng nợ quá hạn nếu cuộc khủng hoảng kéo dài hơn dự kiến.
Covid - 19 kéo dài, thanh khoản ngân hàng sẽ bị đe doạ
Theo WB, thanh khoản trong hệ thống ngân hàng trong quý I/2020 vẫn ổn định do tăng trưởng tín dụng chậm, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thấp và NHNN hút vốn ròng thông qua nghiệp vụ thị trường mở hoặc phát hành tín phiếu kho bạc (trong tháng 2 NHNN đã rút 94,96 nghìn tỷ đồng, tương đương 3,98 tỷ USD).
Tuy nhiên, trong trường hợp cuộc khủng hoảng Covid-19 dự kiến sẽ kéo dài trong vài tháng tới, cả tăng trưởng tín dụng và tiền gửi dự kiến sẽ giảm hơn nữa trong quý II do các hoạt động kinh doanh tiếp tục đình trệ trong hầu hết các lĩnh vực.
Mặc dù hầu hết các ngân hàng thương mại dường như đều được chuẩn bị đầy đủ để ứng phó với sự suy giảm kinh tế tạm thời, chất lượng tài sản của ngân hàng có thể bắt đầu đi xuống do tỷ lệ nợ xấu trong danh mục tín dụng sẽ tăng cao nếu cuộc khủng hoảng kéo dài.
Ngoài ra, một số ngân hàng có thể sẽ khó khăn hơn do tỷ lệ cho vay tương đối lớn trong các lĩnh vực du lịch và bất động sản, vốn đã bị ảnh hưởng mạnh do khủng hoảng. Một số ngân hàng cũng không có đủ vốn tự có, làm hạn chế khả năng phục hồi.
Hiện nay đang có một mối quan ngại là đảm bảo một mức độ an toàn tài chính nhất định cho các doanh nghiệp nhỏ trong những lĩnh vực bị ảnh hưởng để tránh tình trạng thanh khoản kém dẫn đến phá sản doanh nghiệp. Do đó, các ngân hàng cần có lượng vốn lớn để hỗ trợ doanh nghiệp.
Dự kiến thanh khoản ngành ngân hàng sẽ được duy trì ổn định trong quý II/2020 do nhu cầu tín dụng thấp kể từ Tết Nguyên đán và lượng tiền mặt dồi dào trong hệ thống ngân hàng trước khi Covid-19 bùng phát.
Các chuyên gia WB cho rằng một biện pháp khôn ngoan và cần thiết đối với cơ quan quản lý tiền tệ là xây dựng kế hoạch cho tình huống mà các tác động kinh tế của đại dịch vẫn tiếp tục sau quý II.Trong kế hoạch này, ngành ngân hàng cần tiếp tục và có thể phải hỗ trợ trực tiếp hơn nữa.
Đại dịch càng kéo dài, nguy cơ ngành ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng càng lớn và sẽ cần xem xét các phương án tài khoá rộng hơn. Những hạn chế mang tính cơ cấu trong lĩnh vực ngân hàng làm cho NHNN không có nhiều phương án có thể thực hiện. Ví dụ như biện pháp giảm đệm vốn trong ngân hàng để cải thiện thanh khoản như đã được thực hiện ở một số quốc gia khác không phải là một phương án đặt ra ở Việt Nam.
Ngoài ra, NHNN sẽ cần tiếp tục theo dõi tình hình thanh khoản và có thể phải theo đuổi các chính sách tiền tệ nới lỏng hơn nữa thông qua cắt giảm lãi suất ít nhất một lần nữa, giảm hút vốn ròng bằng tiền đồng ra khỏi thị trường, hoặc xem xét bơm thanh khoản vào nền kinh tế để hỗ trợ thanh khoản trong hệ thống ngân hàng nếu tình hình cần cấp tín dụng kéo dài hơn và dẫn đến khủng hoảng thanh khoản cho các ngân hàng.