Giá lúa gạo tiếp tục neo cao do nguồn cung giảm, nhu cầu tăng

16/12/2022 12:16 GMT+7
Chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh giá lúa gạo tăng như hiện nay, doanh nghiệp cần phải đa dạng thị trường; tổ chức sản xuất nhằm đảm bảo các yêu cầu về an toàn thực phẩm, hoàn thiện khâu sau thu hoạch gồm cả đóng gói, bao bì… để chớp lấy các cơ hội xuất khẩu gạo trong năm 2023.

Giá lúa gạo hôm nay 16/12: Nguồn cung giảm, giá lúa gạo ở mức cao 

Giá lúa gạo hôm nay 16/12 tại Đồng bằng sông Cửu Long neo ở mức cao. Hiện lúa OM 18 đang được thương lái thu mua tại ruộng với mức 6.500 – 6.800 đồng/kg; nếp tươi An Giang đang được thương lái thu mua ở mức 7.000 – 7.200 đồng/kg; nếp Long An tươi 7.850 – 8.000 đồng/kg; OM 5451 6.400 – 6.600 đồng/kg; Đài thơm 8 6.800 – 6.900 đồng/kg; nàng hoa 9 6.900 – 7.200 đồng/kg; nếp khô Long An 9.000 – 9.200 đồng/kg, nếp khô An Giang giá dao động 8.400 – 8.600 đồng/kg; lúa Nhật 7.800 – 7.900 đồng/kg; lúa IR 504 ở mức 6.200 – 6.300 đồng/kg; nàng hoa 9 6.600 – 6.800 đồng/kg; lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg.

Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm cũng đứng ở mức cao. Hiện giá gạo nguyên liệu ở mức 9.300 – 9.400 đồng/kg; gạo thành phẩm 10.100 – 10.200 đồng/kg. Tương tự, với mặt hàng phụ phẩm, hiện giá tấm duy trì ổn định ở mức 9.600 đồng/kg; cám khô ở mức 8.500 – 8.600 đồng/kg.

Tại chợ lẻ, giá gạo thường 11.500 đồng/kg – 12.500 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 15.000 – 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 14.000 đồng/kg; nếp ruột 14.000 – 15.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg; Gạo thơm thái hạt dài 18.000 – 19.000 đồng/kg; Gạo Hương Lài 19.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg; Nàng Hoa 17.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 20.000 đồng/kg; Cám 7.000 – 8.000 đồng/kg.

Theo các thương lái hôm nay, thị trường lúa tiếp tục vững ở mức cao, giao dịch ổn định, lúa Thu Đông trên đồng còn lượng ít.

Giá lúa gạo tiếp tục neo cao do nguồn cung giảm, nhu cầu tăng - Ảnh 1.

Trên thị trường xuất khẩu, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá chào bán gạo xuất khẩu 5% tấm của ta đang ở mức 453 USD/tấn – mức cao nhất thế giới.

Trên thị trường xuất khẩu, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá chào bán gạo xuất khẩu 5% tấm của ta đang ở mức 453 USD/tấn – mức cao nhất thế giới. Trong khi đó, giá gạo 25% tấm ở mức 428 USD/tấn.

Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tuần qua đã tăng tuần thứ 3 liên tiếp lên gần mức cao của 16 tháng nhờ nhu cầu mạnh.

Cụ thể, cuối tuần qua, giá gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức từ 445-450 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 7/2021 và tăng so với mức từ 440-445 USD/tấn một tuần trước. Các nhà giao dịch tại Thành phố Hồ Chí Minh cho hay nhu cầu gạo Việt Nam vẫn tăng mạnh. Tuy nhiên, các nhà giao dịch cho biết một số khách hàng Trung Quốc đã chuyển sang mua gạo rẻ hơn từ Pakistan và Ấn Độ, thay vì gạo của Việt Nam và Thái Lan.

Trong khi đó, giá gạo 5% tấm của Thái Lan cũng đã tăng tuần thứ 6 liên tiếp lên 444 USD/tấn trong phiên 8/12, so với mức từ 427–440 USD/tấn trong tuần trước.

Các nhà giao dịch cho rằng mức tăng này là do sự biến động của đồng nội tệ, mặc dù nhu cầu đang chậm lại. Các nhà xuất khẩu đang giảm mua gạo Thái do giá cao, dẫn đến nhu cầu giảm.

Với Ấn Độ, mặc dù giá chào bán rẻ hơn, song đồng rupee suy yếu, làm tăng lợi nhuận của thương nhân từ việc bán hàng ở nước ngoài và khiến họ phải cắt giảm tỷ lệ xuất khẩu và việc thiếu nhu cầu từ những khách hàng lớn đã đè nặng lên thị trường Ấn Độ.

Giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được giao dịch ở mức từ 373-378 USD/tấn, giảm so với mức từ 375-380 USD/tấn trong tuần trước. Nhu cầu gạo Ấn Độ hiện khá yếu từ tất cả các nước mua hàng chính trước kỳ nghỉ lễ năm mới.

Giá gạo trong nước ở Bangladesh vẫn tăng cao bất chấp một loạt biện pháp, bao gồm gia hạn thời hạn nhập khẩu gạo với mức thuế giảm thêm ba tháng đến cuối tháng 3/2023, sau khi mùa màng bị lũ lụt tàn phá hồi đầu năm nay.

Số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy, khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam tháng 11/2022 ước đạt 600 nghìn tấn với giá trị đạt 296 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 11 tháng năm 2022 đạt lần lượt 6,69 triệu tấn và 3,24 tỷ USD, tăng 16,3% về khối lượng và tăng 6,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021. Giá gạo xuất khẩu bình quân 11 tháng năm 2022 ước đạt 485 USD/tấn, giảm 8,1% so với cùng kỳ năm 2021. Việt Nam đang hướng tới mốc 7 triệu tấn gạo được xuất khẩu trong năm nay.

Trong báo cáo ngành lương thực, CTCP Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC) cho biết ngành xuất khẩu gạo đã xuất hiện nhiều tín hiệu tích cực trong năm 2023.

Cụ thể BSC cho rằng diễn biến thời tiết bất lợi khiến các nhà xuất khẩu lớn như Ấn Độ, Pakistan giảm sản lượng xuất khẩu, trong khi nhà nhập khẩu lớn như Trung Quốc vẫn tăng cường nhập khẩu gạo trước kỳ vọng mở cửa nền kinh tế. Trong bối cảnh cầu tăng, doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng sẽ được hưởng lợi từ chênh lệch tỷ giá.

Ngoài ra, Việt Nam và Thái Lan dự kiến sẽ tổ chức các cuộc đàm phán để tăng giá gạo xuất khẩu trong bối cảnh giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao.

Tín hiệu thị trường khả quan song BSC cho rằng các doanh nghiệp kinh doanh lương thực vẫn phải đối mặt với thách thức tăng trưởng, đặc biệt trong trung hạn.

BSC phân tích năng lực cạnh tranh của gạo xuất khẩu của Việt Nam chưa cao do chủ yếu cạnh tranh với các đối thủ về giá bán, phần lớn chưa đảm bảo được yêu cầu về quy trình sản xuất và đảm bảo chất lượng để xuất khẩu sang các thị trường lớn như EU, Nhật… Điều này khiến mức tăng giá kỳ vọng có thể thấp hơn mức tăng giá xuất khẩu trung bình thế giới.

Mặt khác, vấn đề chi phí đầu vào, logistics của Việt Nam cao hơn các đối thủ, trình độ chuyên môn hoá và năng lực sản xuất còn hạn chế, diện tích canh tác manh mún… sẽ tiếp tục tạo áp lực lên biên lợi nhuận của doanh nghiệp ngành gạo.

Trở lại câu chuyện xuất khẩu tháng 11, thống kê của Hải quan cho thấy Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 44,9% trong tổng lượng và chiếm 42,9% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt gần 3 triệu tấn, tương đương 1,39 tỷ USD, giá trung bình 463 USD/tấn, tăng 30% về lượng, tăng 18% về kim ngạch nhưng giảm 9,3% về giá so với 11 tháng đầu năm 2021.

Tiếp sau đó là thị trường Trung Quốc chiếm trên 12% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt 807.947 tấn, tương đương 408,49 triệu USD, giá trung bình 505,6 USD/tấn, giảm 19,2% về lượng và giảm 17,4% kim ngạch; giá tăng nhẹ 2,2% so với cùng kỳ năm 2021.

Thị trường Bờ Biển Ngà đứng thứ 3 đạt 655.593 tấn, tương đương 294,28 triệu USD, giá 448,9 USD/tấn, tăng mạnh 83% về lượng và tăng 61,3% kim ngạch nhưng giảm 11,9% về giá so với cùng kỳ, chiếm trên 9% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.

Xuất khẩu sang các thị trường FTA RCEP đạt 4,42 triệu tấn, tương đương trên 2,09 tỷ USD, tăng 17% về lượng, tăng 9,1% kim ngạch. Xuất khẩu sang các thị trường FTA CPTTP đạt 543.913 tấn, tương đương 263,13 triệu USD, tăng 31,5% về lượng và tăng 19,8% kim ngạch. Xuất khẩu sang thị trường EU đạt 26.668 tấn, tương đương trên 17,84 triệu USD, tăng 17% về lượng, tăng 0,4% kim ngạch.

Bộ NN&PTNT dự báo sản lượng xuất khẩu gạo cả năm 2022 có thể đạt 7,2-7,3 triệu tấn. Đây là lượng gạo xuất khẩu cao thứ hai trong lịch sử ngành lúa gạo Việt Nam kể từ sau năm 2012.

Theo báo cáo của USDA tháng 12/2022 nhập khẩu gạo của nhiều quốc gia trong 2022 – 2023 được điều chỉnh tăng so với trước đó, đặc biệt là Trung Quốc, EU và Indonesia. Trong khi đó, sản lượng gạo toàn cầu niên vụ 2022 – 2023 tiếp tục dự báo sẽ giảm nhẹ so với dự báo trước đó.

Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, hiện các địa phương đang tích cực xuống giống vụ Đông Xuân. Vụ lúa Đông Xuân 2022 - 2023, toàn vùng có kế hoạch xuống giống gần 1,6 triệu ha. Hiện nay, nước lũ mùa nước nổi đang xuống rất nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân tập trung gieo sạ theo đúng lịch khuyến cáo...

Nhìn lại quãng thời gian hai năm dịch Covid-19, các chuyên gia cho rằng dịch bệnh gây rất nhiều khó khăn cho kinh tế thế giới. Nhưng cũng chính dịch Covid-19 đã thay đổi cơ cấu thị trường, nhiều sản phẩm trái cây, lúa gạo của Việt Nam đã đặt chân được vào châu Âu - nơi mà trước đây Thái Lan “thống trị”.

Các chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh giá lúa gạo tăng như hiện nay, doanh nghiệp cần phải đa dạng thị trường; tổ chức sản xuất nhằm đảm bảo các yêu cầu về an toàn thực phẩm, hoàn thiện khâu sau thu hoạch gồm cả đóng gói, bao bì… để chớp lấy các cơ hội xuất khẩu gạo trong năm 2023.

Thái Lan trên đà trở thành nhà xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới

Theo Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan (TREA), Thái Lan đang trên đà vượt Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới trong năm nay.

Trong thời gian từ tháng 1-10/2022, Ấn Độ đứng đầu danh sách các nhà xuất khẩu gạo thế giới với 17,06 triệu tấn, trong khi Thái Lan đứng thứ hai với 6,02 triệu tấn. Việt Nam, nhà xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới năm 2021, bị đẩy xuống vị trí thứ ba với 6,01 triệu tấn. Tiếp theo danh sách này là Pakistan (3,4 triệu tấn) và Mỹ (1,9 triệu tấn).

Cũng theo TREA, danh sách các nhà nhập khẩu gạo lớn nhất tính từ đầu năm đến nay là Iraq (Iraq, 1,3 triệu tấn), tiếp sau là Nam Phi (640.000 tấn), Mỹ (540.000 tấn), Trung Quốc (530.000 tấn) và Benin (300.000 tấn).

TREA cũng cho biết thêm trong tháng 10/2022, Thái Lan đã xuất khẩu 790.000 tấn gạo trị giá 13,97 tỷ baht, tăng tương ứng 24,7% và 20,5% so với tháng trước đó.

Thái Lan dự kiến xuất khẩu gạo trong tháng 11/2022 là 800.000 tấn, và tăng cao hơn trong tháng 12 do nhu cầu trong dịp lễ Giáng sinh và Năm mới. TREA tự tin rằng tổng xuất khẩu gạo của Thái Lan trong năm nay sẽ đạt mục tiêu 7,5 triệu tấn, cao hơn đáng kể so với tổng xuất khẩu 6,12 triệu tấn của năm 2021.

Các thị trường gạo lớn nhất của Thái Lan là Iraq, Nam Phi, Mỹ, Trung Quốc, Benin, Nhật Bản, Senegal và Angola.


Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục