Nguồn cung gạo Ấn Độ giảm đẩy giá gạo Việt Nam tăng mạnh
Thị trường lúa gạo ngày 17/9: Gạo nguyên liệu và thành phẩm tăng
Giá lúa gạo hôm nay 17/9 tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long duy trì ổn định. Hiện lúa IR 504 đang được thương lái thu mua ở mức 5.400 – 5.600 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 5.600 – 5.800 đồng/kg; Nàng hoa 9 duy trì ở mức 5.600 – 5.800 đồng/kg; lúa OM 5451 ở mức 5.500 – 5.600 đồng/kg; OM 18 5.700 – 5.900 đồng/kg; nếp An Giang (tươi) 5.900 – 6.100 đồng/kg; nếp Long An (tươi) 6.200 – 6.500 đồng/kg; lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg; nếp An Giang khô 7.500 – 7.600 đồng/kg; nếp Long An khô 7.700 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm tiếp tục điều chỉnh tăng. Cụ thể, giá gạo nguyên liệu IR 504 đang ở mức 8.300 – 8.350 đồng/kg, tăng 50 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 8.950 – 9.050 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg.
Tương tự, giá mặt hàng phụ phẩm cũng điều chỉnh tăng. Cụ thể, giá tấm ở mức 8.400 – 8.500 đồng/kg, giá cám khô 8.000 – 8.200 đồng/kg, tăng 250 – 350 đồng/kg.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, Việt Nam mua gạo Ấn Độ để làm bánh, làm bột… và gạo tấm để chế biến thức ăn gia súc. Tuy nhiên, hiện nay nguồn cung từ Ấn Độ bị gián đoạn nên các doanh nghiệp chuyển sang mua gạo trong nước khiến giá gạo ngày càng tăng.
Tại chợ lẻ, giá gạo thường 11.500 đồng/kg – 12.500 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 15.000 – 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 14.000 đồng/kg; nếp ruột 14.000 – 15.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg; Gạo thơm thái hạt dài 18.000 – 19.000 đồng/kg; Gạo Hương Lài 19.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg; Nàng Hoa 17.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 20.000 đồng/kg; Cám 7.000 – 8.000 đồng/kg.
Trên thị trường thế giới, giá chào bán gạo xuất khẩu tăng mạnh. Hiện giá gạo 5% tấm ở mức 400 USD/tấn, gạo 25% tấm và 100% tấm giữ ổn định ở mức 378 USD/tấn và 383 USD/tấn.
Theo các doanh nghiệp sau thông tin Chính phủ Ấn Độ hạn chế xuất khẩu gạo, giá lúa gạo trong nước đã tăng giá. Khi giá lúa tăng, giá gạo cũng tăng theo và tăng trước thị trường xuất khẩu, song khách hàng nước ngoài chưa chịu mua giá cao hơn. Hiện nay các doanh nghiệp vẫn giao hàng theo giá cũ. Các đơn hàng giao cuối tháng và tháng sau giá nhích hơn.
USDA dự báo, tháng 9/2022 sản lượng gạo toàn cầu niên vụ 2021/2022 tiếp tục được dự báo sẽ tăng nhẹ so với dự báo trước đó. Nhập khẩu sẽ giảm nhẹ do nhu cầu thấp hơn từ Việt Nam và Cuba. Tương tự, xuất khẩu cũng thấp hơn một chút, chủ yếu đối với Ấn Độ.
Theo các chuyên gia, xuất khẩu gạo của Ấn Độ có thể giảm khoảng 25% trong năm nay do các hạn chế của New Delhi buộc người mua phải chuyển sang các nhà xuất khẩu đối thủ đang cung cấp gạo với giá rẻ hơn.
Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Ấn Độ (TREA), cho biết: Thuế quan đã khiến gạo Ấn Độ trở nên đắt đỏ hơn. Xuất khẩu gạo dự kiến sẽ giảm ít nhất 5 triệu tấn, khiến xuất khẩu năm nay chỉ đạt khoảng 16,2 triệu tấn.
Theo quy định mới, New Delhi chỉ áp đặt thuế đối với gạo trắng, nên một số khách hàng có thể sẽ chuyển sang gạo đồ, loại gạo được miễn thuế xuất khẩu.
Trong năm tài chính 2021-2022, xuất khẩu gạo của Ấn Độ đạt kỷ lục 21,2 triệu tấn, nhiều hơn tổng lượng xuất khẩu gạo của Thái Lan, Việt Nam, Pakistan và Mỹ.
Dữ liệu chính thức cho biết xuất khẩu gạo của Ấn Độ đạt 9,36 triệu tấn trong 5 tháng đầu tiên của năm tài chính hiện tại, tăng khoảng 1 triệu tấn so với mức 8,36 triệu tấn trong cùng kỳ năm trước.
Trong các tháng vừa qua, Ấn Độ đã xuất khẩu được rất nhiều gạo nhưng dự đoán lượng hàng sẽ giảm mạnh trong những tháng tới do các chính sách với gạo gần đây.
Thái Lan, Việt Nam và các nước xuất khẩu gạo khác đã nâng giá gạo trắng sau khi Ấn Độ áp đặt hạn chế vào tuần trước.
Giá gạo tại châu Á đã tăng 5% kể từ thông báo của Ấn Độ và dự kiến sẽ còn đi lên trong tuần tới. Các thương nhân cho biết gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức 400-410 USD/tấn vào ngày 12/9, tăng từ mức 390- 393 USD/tấn của tuần trước.
Ấn Độ hiện chiếm hơn 40% lượng gạo xuất khẩu toàn cầu và đang cạnh tranh với Thái Lan, Việt Nam, Pakistan và Myanmar. Đất nước tỷ dân này xuất khẩu gạo tới hơn 150 quốc gia và bất kỳ sự giảm sút nào trong hoạt động xuất khẩu của Ấn Độ đều sẽ làm tăng áp lực lên giá lương thực toàn cầu, vốn đang tăng do hạn hán và xung đột Nga - Ukraine.
Gạo Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để tăng cả lượng và giá xuất khẩu
Trước đó, tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam mặc dù vẫn tăng trưởng cả lượng và giá trị nhưng giá xuất khẩu trung bình lại xuống thấp.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 8/2022 cả nước xuất khẩu 718.081 tấn gạo, tương đương 339,56 triệu USD, giá trung bình 472,9 USD/tấn, tăng 23,3% về lượng và tăng 19% kim ngạch, nhưng giá giảm nhẹ 3,4% so với tháng 7/2022; so với tháng 8/2021 thì tăng mạnh 44,4% về lượng, tăng 40% kim ngạch nhưng giảm 3% về giá.
Trong tháng 8/2022 xuất khẩu gạo sang thị trường chủ đạo Philippines giảm 12,6% về lượng và giảm 16,7% kim ngạch so với tháng 7/2022, đạt 309.543 tấn, tương đương 138,21 triệu USD; nhưng tăng 13,4% về lượng, tăng 4% kim ngạch, giảm 8,2% về giá so với tháng 8/2021. Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc tháng 8/2022 tăng rất mạnh 96% về lượng và tăng 82% kim ngạch so với tháng 7/2022, đạt 54.223 tấn, tương đương 26,47 triệu USD; so với tháng 8/2021 thì giảm mạnh 40,4% về lượng, giảm 30,6% kim ngạch.
Tính chung cả 8 tháng năm 2022 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt trên 4,79 triệu tấn, tương đương trên 2,33 tỷ USD, tăng 20,7% về khối lượng, tăng 9,9% về kim ngạch so với 8 tháng năm 2021, giá trung bình đạt 486,5 USD/tấn, giảm 9%.
Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 47,7% trong tổng lượng và chiếm 45,6% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt 2,89 triệu tấn, tương đương 1,06 tỷ USD, giá trung bình 464,6 USD/tấn, tăng mạnh 49% về lượng, tăng 33,9% về kim ngạch nhưng giảm 10,2% về giá so với 8 tháng đầu năm 2021.
Tiếp sau đó là thị trường Trung Quốc chiếm trên 10,9% trong tổng lượng và chiếm 11,5% trong tổng kim ngạch, đạt 520.445 tấn, tương đương 269,21 triệu USD, giá trung bình 517,3 USD/tấn, giảm 29% cả về lượng và kim ngạch; giá tăng nhẹ 0,9% so với cùng kỳ năm 2021.
Thị trường Bờ Biển Ngà đứng thứ 3 đạt 488.493 tấn, tương đương 221,63 triệu USD, giá 453,3 USD/tấn, tăng mạnh 86,2% về lượng và tăng 65% kim ngạch nhưng giảm 11,4% về giá so với cùng kỳ, chiếm 10% trong tổng lượng và chiếm 9,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.
Xuất khẩu sang các thị trường FTA RCEP đạt 3,23 triệu tấn, tương đương 1,54 tỷ USD, tăng 24% về lượng, tăng 13,9% kim ngạch. Xuất khẩu sang các thị trường FTA CPTTP đạt 377.271 tấn, tương đương 185,45 triệu USD, tăng 23,6% về lượng và tăng 12,2% kim ngạch.
Do đó, với diễn biến mới của thị trường thế giới, các doanh nghiệp cho rằng gạo Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để tăng cả lượng và giá xuất khẩu trong thời gian tới.
Thực tế, quyết định mới của nhà xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới khiến khách hàng của họ chuyển sang lựa chọn gạo Việt Nam và Thái Lan. Do đó, việc cần làm lúc này với doanh nhiệp là chuẩn bị nguồn hàng và chào giá thống nhất, tương đồng với nhau để có thể tận dụng cơ hội giá gạo tăng lên, mang về giá trị xuất khẩu cao cho ngành hàng.
Việc chuyển hướng sang các nguồn hàng khác như Việt Nam là tất yếu để các đối tác bù đắp lượng thiếu hụt khá lớn từ gạo Ấn Độ. Và điều này cũng đã được Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Ấn Độ, chỉ ra ngay sau khi Chính phủ công bố việc áp thuế.
"Với mức thuế này, gạo xuất khẩu của Ấn Độ sẽ trở nên khó cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Người mua sẽ chuyển sang các quốc gia như Thái Lan và Việt Nam", Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Ấn Độ nhận định.
Được biết, lượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ chi phối rất lớn đến thị trường toàn cầu. Cụ thể, trong năm 2021, Ấn Độ đã xuất khẩu 21,5 triệu tấn gạo nhiều hơn tổng số gạo của 4 nước xuất khẩu lớn gồm Thái Lan, Việt Nam, Pakistan và Mỹ cộng lại. Giờ đây, Ấn Độ cấm xuất khẩu tấm và áp thuế cao một số loại gạo nên thị trường gạo sẽ không tránh khỏi sự tác động.
Các doanh nghiệp cho rằng, nếu không có những bất thường về thời tiết, dịch bệnh, Việt Nam đủ lượng gạo khoảng 6,5-6,7 triệu tấn để xuất khẩu và dự kiến kim ngạch xuất khẩu gạo cả năm nay sẽ đạt khoảng 3,2 - 3,3 tỷ USD.
Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) cho biết, đến thời điểm hiện tại, ngành trồng trọt vẫn đảm bảo được kế hoạch sản xuất, với gieo trồng khoảng 7,24 triệu ha, sản lượng trên 43 triệu tấn thóc. Nếu không có bất thường thời tiết, dịch bệnh, Việt Nam hoàn toàn có đủ sản lượng thóc để đảm bảo xuất khẩu gạo từ 6,5 – 6,7 triệu tấn. Tuy nhiên, giá gạo xuất khẩu thế nào còn phụ thuộc vào thị trường thế giới và năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Các chuyên gia nhận định thời tiết khắc nghiệt ở một số quốc gia sản xuất gạo lớn trên thế giới, trong đó có Ấn Độ, Trung Quốc và Pakistan, đang đe dọa sản lượng gạo toàn cầu trong năm 2022, từ đó ảnh hưởng đến hơn 2 tỷ người ở châu Á đang xem gạo là loại lương thực chính.
Trong bối cảnh giá lương thực tăng vọt trong năm nay, giá gạo vẫn được duy trì ở mức dễ chịu do sản lượng thu hoạch dồi dào 4 năm trước đó. Dù vậy, sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó có chi phí phân bón cao sau khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra, đợt nắng hạn kỷ lục ở Trung Quốc, lượng mưa thấp ở Ấn Độ và lũ lụt ở Pakistan đang đe dọa sản lượng gạo và đẩy giá lên cao.
Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (FAO) cho biết hơn 90% lượng gạo trên thế giới được sản xuất và tiêu thụ ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong khi đó, báo cáo được Bộ Nông nghiệp Mỹ công bố mới đây cho thấy, nguồn cung gạo toàn cầu dự kiến giảm 4,1 triệu tấn còn 697,3 triệu tấn trong vụ mùa 2022-2023, chủ yếu do sản lượng giảm ở Bangladesh và Ấn Độ.
Các doanh nghiệp xuất khẩu đều nhận định rằng, nhu cầu thị trường trong những tháng cuối năm vẫn tốt. Thêm vào đó, giá xuất khẩu sẽ tiếp tục giữ vững ở mức cao, thậm chí có thể còn tăng do ảnh hưởng xung đột Nga-Ukraine kéo theo giá các loại ngũ cốc và lương thực cao. Những yếu tố này được đánh giá có lợi cho việc xuất khẩu gạo của Việt Nam.