Nguồn cung trong nước đang cạn, giá lúa gạo sắp tới sẽ ra sao?

26/09/2022 19:42 GMT+7
Nguồn cung lúa gạo trong nước đang cạn kiệt vì vụ thu hoạch lúa Hè Thu đã kết thúc và phải đợi ít nhất hai tháng nước trước khi vụ thu hoạch khác bắt đầu...

Giá lúa gạo ổn định đầu tuần

Trong tuần qua, giá lúa ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã chững lại đà giảm, hầu hết được duy trì ổn định.

Giá lúa gạo hôm nay 26/9 tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, cụ thể, hiện nếp khô An Giang đang được thương lái thu mua ở mức 8.600 – 8.700 đồng/kg, nếp Long An khô 8.500 – 9.000 đồng/kg; lúa IR 504 5.300 – 5.500 đồng/kg, lúa Đài thơm 8 5.600 – 5.800 đồng/kg; Nàng hoa 9 duy trì ở mức 5.600 – 5.800 đồng/kg; lúa OM 5451 ở mức 5.500 – 5.600 đồng/kg; OM 18 5.700 – 5.900 đồng/kg; nếp An Giang (tươi) 5.900 – 6.100 đồng/kg; nếp Long An (tươi) 6.200 – 6.500 đồng/kg; lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg.

Giá lúa tại Sóc Trăng vẫn duy trì ổn định với Đài Thơm 8 là 6.600 đồng/kg; OM 4900 còn 6.700 đồng/kg. Riêng ST 24 giảm 200 đồng/kg, còn 8.000 đồng/kg.

Tại Đồng Tháp, lúa IR 50404 vẫn giữ ở mức 6.300 đồng/kg; OM6976 là 6.500 đồng/kg. Tại Bến Tre, giá lúa hầu hết không có sự biến động như: ST là 6.900 đồng/kg; IR 50404 là 5.650 đồng/kg.

Trong khi đó, tại Hậu Giang, Tiền Giang lúa tăng 100 – 200 đồng/kg. Giá lúa RVT tại Hậu Giang tăng 100 đồng/kg lên 8.200 đồng/kg. Tương tự, tại Tiền Giang, lúa IR 50404 tăng 200 đồng/kg lên 6.900 đồng/kg; còn OC 10 cũng tăng với mức tương tự lên 6.500 đồng/kg.

Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm duy trì ổn định Cụ thể, hiện giá gạo nguyên liệu đang được thương lái thu mua tại ruộng ở mức 8.600 đồng/kg; gạo thành phẩm duy trì ổn định ở mức 9.100 – 9.200 đồng/kg. Với mặt hàng phụ phẩm, giá tấm cũng đi ngang ở mức 8.600 đồng/kg, giá cám khô 8.250 – 8.300 đồng/kg.

Tại chợ lẻ, giá gạo thường 11.500 đồng/kg – 12.500 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 15.000 – 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 14.000 đồng/kg; nếp ruột 14.000 – 15.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg; Gạo thơm thái hạt dài 18.000 – 19.000 đồng/kg; Gạo Hương Lài 19.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg; Nàng Hoa 17.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 20.000 đồng/kg; Cám 7.000 – 8.000 đồng/kg.

Nguồn cung trong nước đang cạn, giá lúa gạo sắp tới sẽ ra sao? - Ảnh 1.

Giá lúa gạo hôm nay 26/9 tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long duy trì ổn định trong phiên đầu tuần.

Trên thị trường thế giới, giá chào bán gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn vững ở mức cao. Giá gạo 5% tấm ở mức 400-410 USD/tấn, gạo 25% tấm và 100% tấm giữ ổn định ở mức 378 USD/tấn và 383 USD/tấn.

Các doanh nghiệp xuất khẩu cho biết, giá lúa tươi chất lượng cao như giống OM18 đang có giá từ 6.700 đến 6.800 đồng/kg, còn giá gạo lứt OM18 vào khoảng 9.200 đồng/kg. Giá lúa gạo trong nước tăng là do tác động từ việc Ấn Độ áp 20% thuế xuất khẩu gạo trắng các loại và cấm xuất khẩu gạo tấm, đã đẩy giá lúa gạo không chỉ của Việt Nam mà các nước xuất khẩu gạo khác như Thái Lan và Ấn Độ đều tăng.

Tuy giá gạo Việt Nam đã tăng nhưng vẫn ở mức trung bình thấp so với mức xuất khẩu gạo trước đây. Vào năm 2019, 2020, giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam đã là 520 - 530 USD/tấn so với giá gạo hiện nay vẫn còn rẻ hơn khoảng 60 USD/tấn.

Các nhà giao dịch cho biết giá gạo trong nước tăng gần đây trong bối cảnh các nhà xuất khẩu tăng cường thu mua từ nông dân. Tuy nhiên, nguồn cung lúa gạo trong nước đang cạn kiệt vì vụ thu hoạch vụ Hè Thu đã kết thúc và phải đợi ít nhất hai tháng nước trước khi vụ thu hoạch khác bắt đầu.

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 8/2022 cả nước xuất khẩu 718.081 tấn gạo, tương đương 339,56 triệu USD, giá trung bình 472,9 USD/tấn, tăng 23,3% về lượng và tăng 19% kim ngạch, nhưng giá giảm nhẹ 3,4% so với tháng 7/2022; so với tháng 8/2021 thì tăng mạnh 44,4% về lượng, tăng 40% kim ngạch nhưng giảm 3% về giá.

Trong tháng 8/2022 xuất khẩu gạo sang thị trường chủ đạo Philippines giảm 12,6% về lượng và giảm 16,7% kim ngạch so với tháng 7/2022, đạt 309.543 tấn, tương đương 138,21 triệu USD; nhưng tăng 13,4% về lượng, tăng 4% kim ngạch, giảm 8,2% về giá so với tháng 8/2021. Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc tháng 8/2022 tăng rất mạnh 96% về lượng và tăng 82% kim ngạch so với tháng 7/2022, đạt 54.223 tấn, tương đương 26,47 triệu USD; so với tháng 8/2021 thì giảm mạnh 40,4% về lượng, giảm 30,6% kim ngạch.

Tính chung cả 8 tháng năm 2022 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt trên 4,79 triệu tấn, tương đương trên 2,33 tỷ USD, tăng 20,7% về khối lượng, tăng 9,9% về kim ngạch so với 8 tháng năm 2021, giá trung bình đạt 486,5 USD/tấn, giảm 9%.

Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 47,7% trong tổng lượng và chiếm 45,6% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt 2,89 triệu tấn, tương đương 1,06 tỷ USD, giá trung bình 464,6 USD/tấn, tăng mạnh 49% về lượng, tăng 33,9% về kim ngạch nhưng giảm 10,2% về giá so với 8 tháng đầu năm 2021.

Tiếp sau đó là thị trường Trung Quốc chiếm trên 10,9% trong tổng lượng và chiếm 11,5% trong tổng kim ngạch, đạt 520.445 tấn, tương đương 269,21 triệu USD, giá trung bình 517,3 USD/tấn, giảm 29% cả về lượng và kim ngạch; giá tăng nhẹ 0,9% so với cùng kỳ năm 2021.

Thị trường Bờ Biển Ngà đứng thứ 3 đạt 488.493 tấn, tương đương 221,63 triệu USD, giá 453,3 USD/tấn, tăng mạnh 86,2% về lượng và tăng 65% kim ngạch nhưng giảm 11,4% về giá so với cùng kỳ, chiếm 10% trong tổng lượng và chiếm 9,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.

Xuất khẩu sang các thị trường FTA RCEP đạt 3,23 triệu tấn, tương đương 1,54 tỷ USD, tăng 24% về lượng, tăng 13,9% kim ngạch. Xuất khẩu sang các thị trường FTA CPTTP đạt 377.271 tấn, tương đương 185,45 triệu USD, tăng 23,6% về lượng và tăng 12,2% kim ngạch.

Xuất khẩu gạo của Việt Nam có thể tăng về lượng và giá nhưng khó đột biến 

Theo kế hoạch năm 2022, Việt Nam xuất khẩu gạo đạt khoảng 6,3 đến 6,5 triệu tấn, cao hơn 100.000 đến 200.000 tấn so với năm 2021.

Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), dự kiến 4 tháng còn lại Việt Nam xuất khẩu khoảng 1,6 đến 1,8 triệu tấn gạo. Nếu không có gì xảy ra, khả năng xuất khẩu gạo Việt Nam năm 2022 sẽ đạt và vượt kế hoạch.

Nhìn từ vụ việc Ấn Độ hạn chế xuất khẩu gạo, trong báo cáo mới nhất, Công ty Cổ phần Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV) cho rằng, Việt Nam có thể được hưởng lợi từ yếu tố sản lượng xuất khẩu và giá bán tăng, nhưng đột biến là khó xảy ra.

Nguồn cung trong nước đang cạn, giá lúa gạo sắp tới sẽ ra sao? - Ảnh 2.

Theo kế hoạch năm 2022, Việt Nam xuất khẩu gạo đạt khoảng 6,3 đến 6,5 triệu tấn, cao hơn 100.000 đến 200.000 tấn so với năm 2021.

KBSV cho rằng, việc Ấn Độ cấm và áp thuế xuất khẩu với khoảng 50% tổng sản lượng xuất khẩu cả nước sẽ ảnh hưởng đến thị trường gạo toàn cầu, nhất là khi sản lượng gạo niên vụ 2023-2023 dự báo giảm. Việt Nam có thể được hưởng lợi từ cả hai yếu tố là sản lượng xuất khẩu và giá bán tăng, nhưng đột biến là khó xảy ra. Loại gạo cạnh tranh lớn với Việt Nam và Thái Lan tại châu Á, EU và Mỹ là gạo đồ và gạo basmati thì không bị áp thuế.

Đối với thóc, gạo lứt và các loại trắng gạo khác (trừ gạo đồ, gạo Basmati) đã bị áp thuế xuất khẩu 20%. Trong đó, tỷ trọng đóng góp xuất khẩu cao nhất là gạo trắng.

“Việc Ấn Độ áp thuế xuất khẩu với gạo sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các quốc gia nhập khẩu chính như các quốc gia lân cận, châu Phi, các quốc gia có thu nhập thấp và tác động tích cực đến các nhà xuất khẩu gạo lớn khác như Việt Nam và Thái Lan”, KBSV nhận định.

Trong khi, sản lượng gạo Ấn Độ và Trung Quốc niên vụ 2022-2023 dự báo giảm do thời tiết khô hạn thì sản lượng gạo của Việt Nam và Thái Lan tăng giúp hai quốc gia xuất khẩu gạo lớn này có thể tận dụng cơ hội và gia tăng thị phần.

Cụ thể Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo sản lượng xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 6,7 triệu tấn niên vụ 2021-2022, tăng 7% so với niên vụ trước và 6,8 triệu tấn vào niên vụ 2022-2023, tăng 1,5%.

Tuy nhiên, loại gạo mà Ấn Độ áp thuế xuất phần lớn sang châu Phi, các quốc gia lân cận nhưng đây không phải là thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.

Loại gạo cạnh tranh lớn với Việt Nam và Thái Lan tại châu Á, Eu và Mỹ, Ả Rập là gạo đồ và gạo basmati thì không bị áp thuế. Bên cạnh đó, giá cước vận chuyển từ Việt Nam đến châu Phi cũng khá cao và việc giá VND bị mất giá ít hơn các đồng tiền của đối thủ cũng phần nào ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của gạo Việt Nam.

“Các nhà xuất khẩu gạo lớn khác như Việt Nam, Thái Lan, Burma có thể được hưởng lợi từ cả hai yếu tố là sản lượng xuất khẩu và giá bán tăng, nhưng đột biến là khó xảy ra”, KBSV nhận định.

Trường hợp, nếu nhiều nước khác cũng áp đặt lệnh cấm xuất khẩu để đảm bảo an ninh lương thực nội địa như trong cuộc khủng hoảng lương thực 2007-2008 sẽ gây bất ổn lên thị trường lương thực toàn cầu, nhất là khi sản lượng thu hoạch gạo toàn cầu trong niên vụ 2022-2023 dự báo giảm.

Thực tế, các thương nhân và nhà phân tích cho biết, giá gạo của các nhà xuất khẩu chủ chốt như Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam và Myanmar sẽ tăng trong thời gian tới, khiến các thị trường nhập khẩu lương thực phải chịu chi phí cao hơn do thời tiết bất lợi và xung đột Nga - Ukraine. 

Ấn Độ đã phải cấm xuất khẩu gạo 100% tấm và áp thuế 20% đối với một số loại gạo khác trong bối cảnh nước này cố gắng tăng nguồn cung và hạ nhiệt giá nội địa do lượng mưa dưới mức trung bình gây ảnh hưởng đến mùa màng. 

Dự báo an ninh lương thực ở nhiều quốc gia có thể sắp phải chịu áp lực lớn. Ấn Độ chiếm hơn 40% lượng gạo xuất khẩu toàn cầu và cạnh tranh với Thái Lan, Việt Nam, Pakistan, Myanmar trên thị trường thế giới. Động thái của New Delhi sẽ tác động đến dòng chảy thương mại vì giá gạo trắng của Ấn Độ rẻ hơn so với Thái Lan. Sẽ có nhiều đơn đặt hàng hơn đối với gạo Thái Lan và Việt Nam song phải chờ xem chính sách này của Ấn Độ sẽ kéo dài trong bao lâu... 

Trong khi đó, các nhà nhập khẩu gạo hàng đầu thế giới là Trung Quốc và Philippines có thể sẽ bị ảnh hưởng ngay lập tức với giá gạo cao hơn. Các thương nhân cho biết Trung Quốc, một trong những nhà nhập khẩu gạo tấm lớn nhất của Ấn Độ để làm thức ăn chăn nuôi, dự kiến sẽ chuyển sang ngô. Trung Quốc kỳ vọng lượng gạo nhập khẩu của mình sẽ giảm sau lệnh cấm xuất gạo của Ấn Độ. Trung Quốc sắp thu hoạch vụ ngô mới và cũng đang đẩy mạnh nhập khẩu lượng lớn các loại ngũ cốc khác. Còn Philippines cũng đang có động thái nghe ngóng tin tức về một liên minh giữa Thái Lan và Việt Nam về kế hoạch tăng giá xuất khẩu gạo để phân tích tác động có thể xảy ra từ kế hoạch này để nhập gạo...


Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục