Việt Nam thuộc top 20 quốc gia có chính sách hỗ trợ người khuyết tật tốt nhất

Tại Diễn đàn, bà Đinh Thị Thụy, Trưởng phòng người khuyết tật, Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Y tế, đã cung cấp những con số quan trọng về cộng đồng người khuyết tật (NKT) Việt Nam.
Bà cho biết, cả nước hiện có khoảng trên 7 triệu NKT, chiếm 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên. Trong số đó, 58% là nữ và 28,3% là trẻ em, với gần 29% là khuyết tật nặng và đặc biệt nặng.
Hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện của Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ NKT khá cao trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới. Thời gian qua, Việt Nam luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với NKT, thể hiện tinh thần bảo đảm quyền bình đẳng và cơ hội tham gia xã hội của mọi công dân, đã được khẳng định từ Hiến pháp năm 1946 và tiếp tục củng cố trong Hiến pháp năm 2013, với các quy định về bảo vệ quyền con người và quyền được bảo đảm an sinh xã hội.
Trên phương diện quốc tế, Việt Nam đã thể hiện cam kết nhất quán trong thúc đẩy quyền của NKT thông qua việc ký và phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền của Người Khuyết tật, phê chuẩn Công ước ILO 159 về tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm cho NKT, và gia nhập Hiệp ước Marrakesh nhằm mở rộng khả năng tiếp cận sách và tác phẩm in cho người khiếm thị. Những bước tiến này thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong bảo đảm hòa nhập và không phân biệt đối xử đối với NKT.
Hiện thực hóa Hiến pháp và các cam kết quốc tế, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Người khuyết tật năm 2010 và Bộ luật Lao động, Luật Khám chữa bệnh, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Xây dựng, Luật Giao thông, Luật Trợ giúp pháp lý quy định các chính sách đặc thù hỗ trợ NKT. Ban bí thư Trung ương đảng ban hành Chỉ thị tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác trợ giúp NKT. Chính phủ đã ban hành và thực hiện nhiều chương trình, chính sách nhằm bảo vệ, chăm lo, trợ giúp NKT hòa nhập cộng đồng (Chương trình giảm nghèo, Chương trình phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Chương trình trợ giúp người khuyết tật, Kế hoạch thực hiện Công ước CRPD), bảo đảm thực thi đầy đủ và toàn diện quyền con người và quyền của NKT trên tất cả các lĩnh vực, trong đó, đặc biệt bảo đảm thực hiện các quyền về chính trị, kinh tế, dân sự, văn hóa, an sinh xã hội; bảo đảm trẻ em khuyết tật được đến trường, NKT được học nghề, việc làm, sinh kế, vay vốn ưu đãi, hỗ trợ nhà ở, y tế, tiếp cận thông tin, giao thông.
Hệ thống an sinh xã hội không ngừng mở rộng diện bao phủ và nâng cao chất lượng chính sách đối với NKT. Hiện đã có trên 1,7 triệu NKT nặng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Các bệnh viện đa khoa trung ương, tỉnh và huyện đều có khoa phục hồi chức năng. Trẻ em khuyết tật được hỗ trợ học hòa nhập tại các cơ sở giáo dục, và đối với trẻ em không có khả năng học hòa nhập thì được hỗ trợ học tại các cơ sở giáo dục chuyên biệt.
Việt Nam cũng đã thống nhất được ngôn ngữ kí hiệu và chữ nổi Braille trong toàn quốc. Người khuyết tật được hỗ trợ học nghề, tạo việc làm, sinh kế hoặc được vay vốn với lãi suất ưu đãi để tự giải quyết việc làm. Họ cũng được miễn, giảm giá vé khi tham gia giao thông, vào các khu vui chơi giải trí, các công trình văn hóa, và di tích lịch sử.
Khẳng định những bước tiến đã đạt được, ông Đặng Văn Thanh, Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp hội về NKT Việt Nam, thừa nhận rằng Việt Nam là một trong 20 quốc gia có một hệ thống chính sách hỗ trợ NKT tốt nhất. Chính vì vậy, NKT của Việt Nam trong những năm qua đã được cải thiện cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, ông Thanh cũng chỉ rõ những khó khăn cản trở sự hòa nhập toàn diện. Phần lớn (gần 80%) NKT sống ở vùng sâu, vùng xa, dẫn đến việc khó tiếp cận chính sách, công nghệ thông tin và nền văn minh đô thị. Rào cản vật lý còn tồn tại ở nhiều trụ sở cơ quan hành chính cấp cơ sở. Đặc biệt, sau dịch COVID-19, công tác dạy nghề miễn phí cho NKT có dấu hiệu chững lại, ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường lao động.
Để giải quyết các vấn đề này, ông đề xuất ba kiến nghị chính: Thứ nhất, cần sửa đổi Luật NKT và các chính sách liên quan, đồng thời thúc đẩy dự án thành lập Luật sư công. Thứ hai, kiến nghị sửa đổi chính sách bảo hiểm y tế để chi trả hoặc cấp miễn phí các dụng cụ trợ giúp thiết yếu cho NKT (như xe lăn, gậy). Thứ ba, cần tăng mức trợ cấp hàng tháng phù hợp với tình hình thời giá và phục hồi mạnh mẽ công tác dạy nghề miễn phí để đảm bảo NKT có đủ cơ hội và nguồn lực để phát triển.
Gỡ rào cản để hòa nhập bền vững
Tại Diễn đàn, ông Lê Việt Cường, Chủ doanh nghiệp Vụn Art, đã chia sẻ các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện chính sách việc làm cho NKT. Ông đánh giá, việc tiếp cận định hướng nghề nghiệp cho một số nhóm, đặc biệt là người tự kỷ, vẫn còn nhiều thách thức. Nếu không có chiến lược đào tạo và hướng nghiệp sớm, nguy cơ “không có việc làm” trong tương lai là rất lớn.
Ông kiến nghị cần sớm nghiên cứu, đánh giá năng lực, khả năng lao động của từng nhóm NKT để có định hướng nghề phù hợp, bởi đây là lĩnh vực đòi hỏi thời gian và sự tham gia của nhiều tổ chức chuyên môn.

Ông cũng nêu bất cập về bảo hiểm y tế đối với người tự kỷ và NKT nặng, khi nhiều người phải điều trị dài ngày, chi phí cao, trong khi cơ chế hỗ trợ còn hạn chế, gây gánh nặng lớn cho gia đình và cơ sở sử dụng lao động. Dù nhận được nhiều hỗ trợ về mặt bằng và chính sách từ địa phương đến Trung ương, rào cản lớn nhất hiện nay vẫn là quy định công nhận cơ sở sử dụng lao động là NKT và sự thiếu đồng bộ giữa Luật Người khuyết tật với các luật khác như Luật Đất đai, Luật Đầu tư. Ông đề nghị cần sớm rà soát, sửa đổi các quy định liên quan để tạo hành lang pháp lý thống nhất, qua đó thúc đẩy hệ thống các cơ sở sử dụng lao động là NKT phát triển bền vững.
Ý kiến bày tỏ băn khoăn về vấn đề tổ chức của NKT trong cộng đồng cũng được NKT nêu ra tại diễn đàn. Theo đó, NKT không biết nên tham gia tổ chức nào tại địa phương, bởi lẽ hầu hết các tổ chức NKT ở cấp xã/phường đã không còn, đặc biệt sau chủ trương tinh gọn bộ máy chính quyền. Điều này làm mất đi tiếng nói và khả năng tự hỗ trợ, nâng cao năng lực của NKT tại cộng đồng.
Thêm vào đó, đang có xu hướng một số tổ chức của NKT bị sáp nhập hoặc nhầm lẫn với các tổ chức hỗ trợ vì NKT, làm dấy lên lo ngại về vai trò đại diện và tiếng nói đích thực của NKT, vốn đã được quy định rõ trong Luật Người khuyết tật và Công ước quốc tế về quyền của NKT (Việt Nam đã phê chuẩn năm 2014).
Người khuyết tật tha thiết đề nghị Bộ Y tế và các cơ quan chức năng quan tâm, đảm bảo tổ chức của NKT được hoạt động hiệu quả, có tiếng nói và sự hiện diện trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.





















