Xuất khẩu rau quả Việt sang Trung Quốc khó khăn, còn thị trường này thì dư địa vô biên

22/01/2022 13:30 GMT+7
Năm 2022, thị trường sản phẩm rau quả tươi của EU sẽ tăng thêm 15 triệu tấn/năm, nếu người tiêu dùng EU thực hiện chế độ ăn với rau quả đạt mức khuyến nghị tối thiểu của WHO là 400 gr/người/ngày. Và cơ hội xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào EU là "vô biên"...

Ăn thêm 1 miếng rau hay trái cây, EU cần thêm 15 triệu tấn rau trái/năm

Theo cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat), có 12% người châu Âu trên 15 tuổi ăn ít nhất 5 phần trái cây và rau mỗi ngày. Kết quả này phù hợp với kết luận của Cơ quan Giám sát Tiêu thụ Freshfel châu Âu được công bố vào ngày 16/12/2021, cho thấy mức tiêu thụ rau quả trung bình của EU vào khoảng 350 gr/người/ngày. 

Trong năm 2022, dựa trên các lợi ích về môi trường, khí hậu và sức khỏe, ngành rau quả của EU vẫn còn rất nhiều việc phải làm để người tiêu dùng thực hiện chế độ ăn với rau quả đạt mức khuyến nghị tối thiểu của WHO là 400 gr/người/ngày. 

Để đạt được ít nhất 400 gr khuyến nghị tối thiểu của WHO mỗi ngày, người tiêu dùng châu Âu sẽ phải thêm một miếng trái cây hoặc rau trong chế độ ăn hàng ngày. Mục tiêu này sẽ thúc đẩy thị trường sản phẩm rau quả tươi của EU tăng thêm 15 triệu tấn/năm. 

Người tiêu dùng trên khắp châu Âu đều quan tâm đến hương vị, độ tươi, vitamin và khoáng chất, giá trị gia tăng, sự tiện lợi và tính thời vụ. Theo Eurostat ước tính 55% dân số EU đang ăn từ 1 đến 4 phần, và 33% dân số trên 15 tuổi không ăn bất kỳ phần trái cây hoặc rau quả nào. Báo cáo cũng chỉ ra rằng phụ nữ ăn nhiều trái cây và rau hơn nam giới, vì 15% phụ nữ đạt đến 5 phần ăn và chỉ 10% nam giới đạt đến 5 phần ăn.

Xuất khẩu rau quả Việt sang Trung Quốc khó khăn, còn thị trường này thì dư địa vô biên - Ảnh 1.

Xuất khẩu trái cây sang Trung Quốc khó khăn từ cuối năm 2021. Trong ảnh: Nhiều chủ xe bán tháo mít ven đường. Ảnh: Gia Tưởng

Xuất khẩu rau quả Việt sang Trung Quốc khó khăn, còn thị trường này thì dư địa vô biên - Ảnh 2.

Nguồn: Tổng cục Hải quan; ước tính tháng 12/2021

Để đáp ứng nhu cầu rau quả ngày càng tăng cao của mình, EU đã cam kết mở cửa rất mạnh cho rau quả Việt Nam trong EVFTA, 94% trong tổng số 547 dòng thuế rau quả và các chế phẩm từ rau quả (trong đó có nhiều sản phẩm là thế mạnh của Việt Nam như vải, nhãn, chôm chôm, thanh long, dứa, dưa,…) được xoá bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực. 

Phần lớn các dòng thuế EU cam kết xóa bỏ ngay hiện đều đang có mức thuế MFN trung bình là trên 10%, cá biệt có những sản phẩm rau quả đang chịu thuế trên 20%. Do đó, mức cam kết này của EU được đánh giá là sẽ tạo ra lợi thế lớn về giá cho rau quả Việt Nam (đặc biệt trong cạnh tranh nhập khẩu vào EU với các nước có thế mạnh về rau quả chưa có FTA với EU như Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Indonesia).

Xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường EU sau khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực và đi vào thực thi đã đạt được kết quả tích cực. Trong 11 tháng 2021, kim ngạch xuất khẩu rau quả sang EU đạt 173 triệu USD, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2020. 

Các chủng loại rau quả xuất khẩu chủ yếu sang EU là: mã HS. 20098999 - Các loại nước ép trái cây (kể cả hèm nho) và nước rau ép, chưa lên men và chưa pha thêm rượu, đã hoặc chưa pha thêm đường hoặc chất tạo ngọt khác - Loại khác (đạt 28 triệu USD, giảm 23,5% so với cùng kỳ 2020 và chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả sang EU); mã HS. 8109094 - Quả lựu, quả mãng cầu hoặc quả na, quả roi, quả thanh trà, quả chanh leo, quả sấu đỏ, quả táo ta, và quả dâu da đất (đạt 22 triệu USD, tăng 19,8%, chiếm 13%); mã HS. 08119000 - Quả và quả hạch (nuts), đã hoặc chưa hấp chín hoặc luộc chín trong nước, đông lạnh, đã hoặc chưa thêm đường hoặc chất tạo ngọt khác - Loại khác (đạt 18 triệu USD, tăng 23,8%, chiếm 10,4%)… 

Trong 11 tháng năm 2021, EU là thị trường xuất khẩu rau quả lớn thứ tư của Việt Nam, chiếm 5,3% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Trong số các thị trường thành viên EU, rau quả của Việt Nam được xuất chủ yếu sang các nước: Hà Lan (đạt 71 triệu USD), Pháp (đạt 35 triệu USD) và Đức (đạt 20 triệu USD). 

Xuất khẩu rau quả Việt sang Trung Quốc khó khăn, còn thị trường này thì dư địa vô biên - Ảnh 3.

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan

Xuất khẩu rau quả Việt sang Trung Quốc khó khăn, còn thị trường này thì dư địa vô biên - Ảnh 4.

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan

Lượng rau, quả tiêu thụ có xu hướng ngày một tăng tại EU do thói quen ăn uống để bảo vệ, tăng cường sức khỏe. Tuy nhiên, thị trường EU đòi hỏi rất khắt khe về các truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, đặc biệt là an toàn vệ sinh thực phẩm. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu, nắm bắt rõ thông tin về thị trường, từ thị hiếu người tiêu dùng cho đến những quy định, tiêu chuẩn về quy tắc xuất xứ, an toàn vệ sinh thực phẩm… để từ đó gia tăng chất lượng hàng hóa, chinh phục thị trường "khó tính" này. 

Bộ Công Thương dự báo, mặt hàng rau quả sẽ có tiềm năng tăng trưởng rất lớn trong năm 2022 nếu Việt Nam khai thác tốt lợi thế từ Hiệp định EVFTA. Nhu cầu về trái cây của EU đang có xu hướng ngày một tăng do thói quen ăn uống để bảo vệ, tăng cường sức khỏe. Các chủng loại trái cây tiềm năng tăng trưởng tốt tại thị trường EU trong thời gian tới là me tươi, điều, mít, vải, mận, chanh dây, khế, thanh long, ổi, xoài, măng cụt...

Làm sao để không còn "mang tiếng" là chỉ cạnh tranh được về giá ở phân khúc thấp?

Thực tế, mặc dù đã có nhiều cải thiện thời gian qua, nhưng trái cây xuất khẩu của ta sang EU vẫn còn cạnh tranh về giá ở phân khúc thấp. Những hạn chế này đến từ nội tại ngành sản xuất nông nghiệp Việt Nam tạo nên những thách thức không nhỏ đối với mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu rau quả Việt Nam vào EU và gia tăng thị phần mà Việt Nam trong thời gian tới. 

Thứ nhất, EU là một thị trường có đòi hỏi cao về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm và các hàng rào kỹ thuật. Vì vậy, các chính sách quản lý nông sản của EU nghiêm ngặt, đặc biệt các rào cản kỹ thuật của EU với nông sản thực phẩm, đặc biệt là rau quả có xu hướng ngày càng khắt khe hơn… 

Hiệp định EVFTA không có nhiều cam kết mới về các biện pháp phi thuế như các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) hay các rào cản kỹ thuật với thương mại (TBT). Trong khi đó, những biện pháp này mới được coi là rào cản khó khăn nhất đối với nông sản Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường. Hầu hết các cam kết về SPS và TBT trong EVFTA đều chỉ khẳng định lại các nghĩa vụ theo Hiệp định SPS và TBT của WTO. Do đó, EVFTA không giúp hạn chế các rào cản phi thuế của EU với hàng xuất khẩu Việt Nam. 

Xuất khẩu rau quả Việt sang Trung Quốc khó khăn, còn thị trường này thì dư địa vô biên - Ảnh 5.

EU tăng tần suất kiểm tra thuốc bảo vệ thực vật với mặt hàng thanh long của Việt Nam lên 20%. Ảnh: CT

Tại Việt Nam, phương thức nuôi trồng và thực tiễn sản xuất vẫn chưa phù hợp để đáp ứng được các biện pháp kiểm dịch nghiêm ngặt. Để đáp ứng được các tiêu chuẩn, tuân thủ các quy trình theo chuẩn quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải điều chỉnh hoạt động sản xuất hoặc phương pháp sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến..., dẫn tới chi phí tuân thủ bị gia tăng, tạo áp lực về tài chính cho các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, để hàng nông sản, trong đó có rau quả Việt Nam có thể thâm nhập sâu vào thị trường EU, vấn đề đặt ra là một mặt Việt Nam cần phát triển sản xuất hàng nông sản xuất khẩu chú trọng gắn liền với tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn khắt khe của EU; mặt khác, ở góc độ quốc gia cần tiếp tục thúc đẩy quan hệ thương mại, đàm phán để tránh việc bị EU áp các rào cản kỹ thuật không hợp lý. Bên cạnh đó, người nông dân và doanh nghiệp phải đưa công nghệ truy xuất nguồn gốc vào từng khâu trong quá trình sản xuất nông sản, rau quả xuất khẩu. 

Thứ hai, để chinh phục thị trường EU và được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định EVFTA, hàng nông sản, rau quả xuất khẩu của Việt Nam cần đáp ứng các quy định về quy tắc xuất xứ hàng hoá. So với các FTA mà Việt Nam đang thực thi, quy định về quy tắc xuất xứ hàng hoá đối với hàng nông sản trong Hiệp định EVFTA được đánh giá là chặt chẽ hơn khi tiêu chí xuất xứ hàng hoá áp dụng chủ yếu là xuất xứ thuần tuý. 

Thứ ba, khó khăn từ phía các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tiếp cận thị trường nông sản EU. Nguyên nhân của thực trạng này là do năng lực nội tại về vốn, con người,… của các doanh nghiệp xuất khẩu còn hạn chế. Các nhà sản xuất, xuất khẩu cũng thường thiếu thông tin và hướng dẫn về những quy định của EU trong khi các quy định này thường xuyên được thay đổi. Từ đó, thời gian các doanh nghiệp có được để đáp ứng các yêu cầu về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch đã bị giảm đáng kể, dẫn đến tăng chi phí hoặc có thể hạn chế khả năng xuất khẩu. Bên cạnh đó, hoạt động xúc tiến thương mại sang thị trường EU cũng chưa triển khai được tại tất cả các nước thành viên và phần nào chưa đi sâu vào đối tượng thụ hưởng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải nâng cao năng lực của các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả, đồng thời thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại đối với hàng nông sản rau quả tại thị trường này. 

Cuối cùng, vấn đề sở hữu trí tuệ chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm đúng mức, trong khi đó, đây là nội dung được EU đặt lên hàng đầu. Tương tự như vậy, một số doanh nghiệp mới chỉ chú trọng tới số lượng xuất khẩu, chưa thực sự quan tâm đến xây dựng thương hiệu. Vì vậy, việc quan tâm xây dựng và phát triển thương hiệu đã và đang là vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay đối với các mặt hàng nông sản rau quả của nước ta. Ngoài ra, xuất khẩu nông sản rau quả của Việt Nam còn gặp khó khăn do chi phí logictics trong xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng còn cao và chịu cạnh tranh mạnh mẽ từ nhiều quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Brazil,....

Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục