Xuất khẩu gạo 9 tháng năm 2022 tăng cả khối lượng và kim ngạch nhưng giá giảm

17/10/2022 14:37 GMT+7
9 tháng năm 2022 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt trên 5,37 triệu tấn, tương đương gần 2,61 tỷ USD, tăng 17,7% về khối lượng, tăng 7,9% về kim ngạch so với 9 tháng năm 2021.

Giá lúa, gạo tiếp tục tăng khá 

Giá lúa gạo hôm nay 17/10 tại Đồng bằng sông Cửu Long duy trì ổn định so với cuối tuần trước. Thị trường giao dịch sôi động ngay trong phiên đầu tuần.

Cụ thể nếp An Giang khô đang được thương lái thu mua ở mức 8.400 – 8.500 đồng/kg; nếp khô Long An 8.600 – 9.000 đồng/kg; lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg; lúa OM 5451 đang được thương lái thu mua ở mức 5.500 – 5.700 đồng/kg, lúa OM 18 đang được thương lái thu mua tại ruộng với mức 5.500 -5.700 đồng/kg; lúa IR 504 5.300 – 5.500 đồng/kg, lúa Đài thơm 8 5.600 – 5.800 đồng/kg; Nàng hoa 9 duy trì ở mức 5.600 – 5.800 đồng/kg; nếp An Giang (tươi) 5.900 – 6.100 đồng/kg; nếp Long An (tươi) 6.200 – 6.500 đồng/kg.

Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm duy trì ổn định. Hiện giá gạo nguyên liệu đang được thương lái thu mua ở mức 9.000 đồng/kg, gạo thành phẩm 9.600 đồng/kg. Với mặt hàng phụ phẩm, hiện giá tấm duy trì ở mức 9.300 đồng/kg; cám khô ổn định ở mức 8.250 – 8.300 đồng/kg.

Tại chợ lẻ, giá gạo thường 11.500 đồng/kg – 12.500 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 15.000 – 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 14.000 đồng/kg; nếp ruột 14.000 – 15.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg; Gạo thơm thái hạt dài 18.000 – 19.000 đồng/kg; Gạo Hương Lài 19.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg; Nàng Hoa 17.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 20.000 đồng/kg; Cám 7.000 – 8.000 đồng/kg.

Xuất khẩu gạo 9 tháng năm 2022 tăng cả khối lượng và kim ngạch nhưng giá giảm - Ảnh 1.

Giá lúa gạo hôm nay 17/10 tại Đồng bằng sông Cửu Long duy trì ổn định so với cuối tuần trước.

Trên thị trường thế giới, giá chào bán gạo xuất khẩu của Việt Nam duy trì ổn định so với tuần qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá chào bán gạo xuất khẩu 5% tấm đang ở mức 438 USD/tấn, gạo 25% tấm ở mức 418 USD/tấn.

Nhiều doanh nghiệp dự báo, trong bối cảnh thị trường lúa, gạo đang tăng giá, nguồn cung trong nước đang ở mức thấp và giá gạo có thể nhỉnh hơn trong những tuần tới.

Dữ liệu vận chuyển sơ bộ cho thấy 265.250 tấn gạo sẽ được xuất cảng thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ ngày 1-22/10; trong đó phần lớn gạo được xuất sang các nước Philippines, châu Phi và Bangladesh.

Thời tiết bất lợi làm giảm dự báo sản lượng gạo 2022/23 cho Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan. Tổng nguồn cung xuất khẩu gạo của 3 nước này chiếm 49% tổng xuất khẩu gạo cả thế giới.

Tại Việt Nam, theo USDA, dự báo, xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng sẽ tăng. Sản lượng sản xuất tích cực trong niên vụ 2022/23 nhờ thuận lợi về thời tiết. Các vùng trọng điểm lúa nước không bị các khó khăn hạn hán hay mưa bão.

Xuất khẩu gạo 9 tháng năm 2022 tăng cả khối lượng và kim ngạch nhưng giá giảm - Ảnh 2.

Xuất khẩu gạo 9 tháng năm 2022 tăng cả khối lượng và kim ngạch nhưng giá giảm.

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 9/2022 cả nước xuất khẩu 583.203 tấn gạo, tương đương 275,31 triệu USD, giá trung bình 472 USD/tấn, giảm gần 19% cả về lượng và kim ngạch, và giảm nhẹ 0,2% về giá so với tháng 8/2022; so với tháng 9/2021 cũng giảm 1,6% về lượng, giảm 6% kim ngạch và giảm 4,4% về giá.

Trong tháng 9/2022 xuất khẩu gạo sang thị trường chủ đạo Philippines tiếp tục giảm mạnh trên 40% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 8/2022, đạt 184.817 tấn, tương đương 81,59 triệu USD; và cũng giảm 34,8% về lượng, giảm 40,9% kim ngạch, giảm 9,4% về giá so với tháng 9/2021. Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc tháng 9/2022 tiếp tục tăng rất mạnh 94,7% về lượng và tăng 89,6% kim ngạch so với tháng 8/2022, đạt 105.568 tấn, tương đương 50,2 triệu USD; so với tháng 9/2021 thì giảm 5,5% về lượng, nhưng tăng 5,1% kim ngạch.

Tính chung cả 9 tháng năm 2022 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt trên 5,37 triệu tấn, tương đương gần 2,61 tỷ USD, tăng 17,7% về khối lượng, tăng 7,9% về kim ngạch so với 9 tháng năm 2021, giá trung bình đạt 484,9 USD/tấn, giảm 8,4%.

Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 46% trong tổng lượng và chiếm 43,9% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt 2,47 triệu tấn, tương đương 1,14 tỷ USD, giá trung bình 462,9 USD/tấn, tăng mạnh 35,3% về lượng, tăng 22,2% về kim ngạch nhưng giảm 9,7% về giá so với 9 tháng đầu năm 2021.

Tiếp sau đó là thị trường Trung Quốc chiếm 11,7% trong tổng lượng và chiếm 12,3% trong tổng kim ngạch, đạt 626.012 tấn, tương đương 319,41 triệu USD, giá trung bình 510,2 USD/tấn, giảm 26% về lượng và giảm 24,7% kim ngạch; giá tăng nhẹ 1,8% so với cùng kỳ năm 2021.

Thị trường Bờ Biển Ngà đứng thứ 3 đạt 546.976 tấn, tương đương 246,9 triệu USD, giá 451,4 USD/tấn, tăng mạnh 94,4% về lượng và tăng 71,2% kim ngạch nhưng giảm 11,9% về giá so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 10,2% trong tổng lượng và chiếm 9,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.

Xuất khẩu sang các thị trường FTA RCEP đạt 3,58 triệu tấn, tương đương 1,7 tỷ USD, tăng 16,7% về lượng, tăng 8,3% kim ngạch. Xuất khẩu sang các thị trường FTA CPTTP đạt 429.159 tấn, tương đương 209,31 triệu USD, tăng 22,2% về lượng và tăng 12,2% kim ngạch.

Việt Nam dự kiến xuất khẩu 6,5 – 6,7 triệu tấn vào năm 2022, tăng 5 - 8%

Báo cáo ngành gạo của công ty chứng khoán Yuanta Việt Nam cho biết nhu cầu gạo tiêu thụ gạo của thế giới tăng trưởng khá ổn định trong khi nguồn cung niên vụ 2022 - 2023 có xu hướng giảm do yếu tố thời tiết.

Cụ thể, thời tiết bất lợi làm giảm dự báo sản lượng gạo 2022-2023 cho Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan. Trong khi, tổng nguồn cung xuất khẩu gạo của ba nước này chiếm 49% tổng lượng xuất khẩu gạo của cả thế giới.

Điều này khiến các nước nhập khẩu gạo lớn như Trung Quốc, Philippines, Bangladesh sẽ phải chịu áp lực về sản lượng và giá.

Bởi, Trung Quốc bị hạn hán nghiêm trọng tại 7 tỉnh khiến giảm sản lượng gạo và dự kiến sẽ phải tăng nhập khẩu gạo lên mức kỷ lục khoảng 6 triệu tấn niên vụ 2022-2023; Philippines tăng dự trữ gạo cho an ninh lượng thực; Bangladesh bị lũ lụt làm giảm năng suất.

Yuanta dự báo giá gạo trong niên vụ 2022-2023 có thể đi lên vì nhu cầu tiêu thụ gạo của thế giới ổn định trong khi nguồn cung có thể giảm trong vài năm tới.

Trước xu hướng này, Việt Nam và Thái Lan là hai nước xuất khẩu gạo được hưởng lợi chính. Tuy nhiên, Thái Lan có thế mạnh hơn Việt Nam do đồng baht Thái đã mất giá mạnh nhất 15 năm so với USD, tạo sức cạnh tranh về giá.

Theo Yuanta, tình hình sản xuất gạo ở Thái Lan khá ổn định về cả sản lượng sản xuất, diện tích gieo trồng. Năng xuất ít cải thiện do nước này ưu tiên nâng cao chất lượng gạo để giá bán tốt hơn. Từ năm 2018 đến nay, Thái Lan đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang các thị trường phát triển, đặc biệt Mỹ để có mức giá tốt hơn.

Niên vụ 2022-2023, Yuanta sản lượng gạo của Thái Lan sẽ đạt 20 triệu tấn, tăng 2% so với năm 2021-2022 nhờ hiện tượng thời tiết La Nina đã bổ sung lượng nước lớn cho nông dân trồng lúa ở Thái Lan.

Sự suy yếu của đồng baht Thái Lan đã khiến giá gạo xuất khẩu của Thái Lan trở nên hấp dẫn và cạnh tranh. USDA cũng dự báo xuất khẩu gạo Thái năm 2022 ở mức 8 triệu tấn, tăng 31% so với năm 2021.

Tương tự như Thái Lan, Việt Nam cũng dần giảm diện tích canh tác lúa và tập trung vào cải thiện chất lượng gạo để có mức giá xuất khẩu cạnh tranh.

Thống kê của USDA cho thấy giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 6/2016 đến tháng 2/2021 luôn thấp hơn Thái Lan. Song đến từ tháng 2/2021, cục diện đã bắt đầu đảo chiều.

Còn về sản lượng xuất khẩu gạo đi xuống do Việt Nam giảm bán sang các nước như Philippines, Malaysia, Indonesia (năm 2013, 2016) và Trung Quốc tăng các rào cản với gạo nhập khẩu từ năm 2018.

Yuanta cho rằng sản lượng sản xuất lúa gạo trong niên vụ 2022-2023 của Việt Nam khá tích cực nhờ thời tiết thuận lợi, các vùng trồng lúa trọng điểm không bị hạn hán hay mưa bão.

Bộ NN&PTNT dự báo Việt Nam dự kiến xuất khẩu 6,5 – 6,7 triệu tấn vào năm 2022, tăng 5 - 8% so với năm 2021.

Xuất khẩu gạo 9 tháng năm 2022 tăng cả khối lượng và kim ngạch nhưng giá giảm - Ảnh 3.

Bộ NN&PTNT dự báo Việt Nam dự kiến xuất khẩu 6,5 – 6,7 triệu tấn vào năm 2022, tăng 5 - 8% so với năm 2021.

Theo các doanh nghiệp xuất khẩu, sau lệnh hạn chế xuất khẩu gạo của Ấn Độ, đến thời điểm này mặt bằng giá gạo của Việt Nam tăng khoảng 40 - 50 USD/tấn. Hiện thị trường gạo đang chuyển biến tích cực, lượng khách hàng tìm đến Việt Nam như nguồn cung thay thế nhiều hơn và xu hướng tăng giá vẫn còn tiếp diễn.

Gạo 5% tấm của Việt Nam chào giá cho cuối tháng 10, đầu tháng 11 mức 455 - 450 USD /tấn (FOB), hàng container, cao hơn gạo của Thái Lan khoảng 10 USD/tấn. Tuy nhiên, giá chào này là khá cao nên khách hàng đang xem xét lại.

Gạo OM 18, ĐT 8 chào mức 480 USD - 490 USD/tấn tùy theo chất lượng. Gạo Jasmine chào bán đi các thị trường cơ bản có giá từ 540 USD - 550 USD/tấn. Gạo Jasmine vẫn giao dịch bình thường, còn với gạo thơm nhẹ hay gạo trắng thường giao dịch khá trầm lắng, do giá mức khá cao nên khách hàng tỏ ra e dè. Ở thị trường trong nước mua các loại gạo này muốn mua với số lượng lớn cũng không mua được vì đã qua mùa vụ.

Trước đây Philippines dự kiến nhập khẩu gạo vào tháng 12, khi vụ mùa ở nước này kết thúc, nhưng nay do tình hình bão lũ tàn phá nặng nề các vùng nông nghiệp trọng điểm, nên chính phủ nước này đang tính đến chuyện nhập khẩu thêm gạo để đủ tiêu dùng trong nước, và tồn kho dự trữ quốc gia, khoảng 200.000 tấn/tháng cho 3 tháng cuối năm nay.

Dự kiến Philippines sẽ triển khai kế hoạch này vào cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11. Thời điểm này lúa Thu Đông 2022 ở Đồng bằng sông Cửu Long đang thu hoạch sẽ giúp đầu ra lúa Thu Đông thuận lợi hơn về mặt giá cả.

Thực tế, năm nào cũng vậy khi vào mùa thu hoạch lúa Philippines sẽ tạm dừng nhập khẩu gạo, hoặc nhập khẩu ít lại để xem thu hoạch trong nước như thế nào mới quyết định lượng gạo (trắng thường) nhập khẩu theo hạn nhập chính phủ. Đó là đối với gạo trắng thông thường, còn đối với các loại gạo cao cấp như: Japonica, thơm cao cấp, dòng gạo ST... các thương nhân vẫn nhập khẩu bình thường.

Đánh giá về thị trường những tháng cuối năm, nhiều doanh nghiệp cho rằng, hiện nay những biến động trên thị trường gạo thế giới như chiến tranh, gián đoạn chuỗi cung ứng, biến đổi khí hậu dẫn tới nhiều nước phải tính toán lại nhu cầu an ninh lương thực của mình. Trong khi đó, nguồn cung gạo của Việt Nam được duy trì ở mức khá ổn định, do đó đây là cơ hội lớn cho Việt Nam gia tăng xuất khẩu.

Xuất khẩu gạo 9 tháng năm 2022 tăng cả khối lượng và kim ngạch nhưng giá giảm - Ảnh 4.

USDA dự báo sản lượng - tiêu thụ - tồn trữ gạo thế giới (báo cáo tháng 9/2022). (Gạo quy xay xát; ĐVT: nghìn tấn; năm marketing tùy thuộc mỗi thị trường).

 

Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục