Giá cà phê hai sàn tiếp tục tụt giảm, cà phê nội cũng đi xuống

16/03/2023 13:26 GMT+7
Giá cà phê hai sàn tiếp tục thanh lý do lo ngại rủi ro tăng cao. Trong nước, hôm nay 16/3/2023, giá cà phê chốt tại 46.300 – 46.700 đồng/kg, tiếp tục giảm 200 - 300 đồng/kg...

Giá cà phê hôm nay 16/3: Giảm tiếp từ 200 đồng/kg đến 300 đồng/kg

Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London sụt giảm liên tiếp phiên thứ tư. Kỳ hạn giao ngay tháng 5 giảm thêm 11 USD, xuống 2.069 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 7 cũng giảm thêm 11 USD, còn 2.059 USD/tấn, các mức giảm đáng kể. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.

Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York cùng xu hướng giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 5 giảm thêm 2,85 cent, xuống 172,60 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 7 giảm thêm 2,95 cent, còn 171,75 cent/lb, các mức giảm rất đáng kể. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.

Giá cà phê hai sàn tiếp tục tụt giảm, cà phê nội cũng đi xuống - Ảnh 1.

Giá cà phê trực tuyến sàn London, New York, BMF Cập nhật: 16/03/2023 lúc 12:30:01 (delay 10 phút)

Giá cà phê hai sàn tiếp tục tụt giảm, cà phê nội cũng đi xuống - Ảnh 2.

Giá cà phê trực tuyến sàn London, New York, BMF Cập nhật: 16/03/2023 lúc 12:30:01 (delay 10 phút)

Giá cà phê hai sàn tiếp tục tụt giảm, cà phê nội cũng đi xuống - Ảnh 3.

Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên giảm thêm 200 – 300 đồng, xuống dao động trong khung 46.300 - 46.700 đồng/kg.

Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên giảm thêm 200 – 300 đồng, xuống dao động trong khung 46.300 - 46.700 đồng/kg. Trong đó, tỉnh Lâm Đồng có mức giá thấp nhất là 46.300 đồng/kg sau khi giảm 200 đồng/kg. Kế đến là Đắk Nông với giá 46.500 đồng/kg, giảm 300 đồng/kg. Tỉnh Gia Lai đang giao dịch ở mức 46.600 đồng/kg sau khi giảm 200 đồng/kg. Cùng thời điểm khảo sát, giá cà phê tại tỉnh Đắk Lắk ở mức 46.700 đồng/kg - cao nhất trong các địa phương được khảo sát, sau khi giảm 200 đồng/kg.

Giá cà phê kỳ hạn tiếp nối xu hướng giảm khi USDX mạnh thêm sau thông tin Credit Suisse, một ngân hàng lớn của Thụy Sỹ gặp khó khăn về thanh khoản khiến thị trường toàn cầu biến động dữ dội, dòng vốn đầu cơ tiếp tục tháo chạy tìm nơi trú ẩn an toàn trước khi có sự ra tay can thiệp của các Chính phủ.

Giá cà phê còn gặp bất lợi khi tỷ giá đồng Reais giảm thêm 0,72 %, xuống ở mức 1 USD = 5,2940 R$ đã hỗ trợ người Brazil đẩy mạnh bán cà phê xuất khẩu. Báo cáo tồn kho ICE – London ngày hôm qua 15/03 đã tăng thêm 420 tấn, lên ở mức 74.330 tấn (tương đương 1.238.833 bao), là mức cao 3 tháng.

Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 5 tháng đầu niên vụ 2022/23 đạt tổng cộng 748 ngàn tấn các loại. Ước tồn kho nội địa hiện còn xấp xỉ gần 1 triệu tấn. Với nhu cầu tiêu thụ trong nước khoảng 300.000 tấn, thị trường lo ngại sẽ thiếu hụt nguồn cung nếu các nước sản xuất Robusta lớn khác xuất khẩu chậm lại.

Báo cáo tháng 2 của ICO cho thấy, xuất khẩu cà phê toàn cầu trong 4 tháng đầu niên vụ 2022/23 (tháng 10/2022 - tháng 1/2023) chỉ đạt 39,9 triệu bao, giảm 6% so với cùng kỳ niên vụ trước.

Reuters dẫn nguồn tin từ Hiệp hội các nhà xuất khẩu cà phê Brazil (Cecafe), xuất khẩu cà phê nhân xanh của nước này trong tháng 2/2023 chỉ đạt 2,1 triệu bao, giảm 35,8% so với cùng kỳ năm ngoái và là mức thấp nhất trong tháng 2 kể từ năm 2018.

Trong nhiều năm trở lại đây, Việt Nam được biết đến là quốc gia cung ứng cà phê lớn thứ 2 thế giới, đặc biệt với mặt hàng Robusta, Việt Nam là nước thống trị nguồn cung với khoảng 40% thị phần trên toàn cầu. Tuy nhiên, chúng ta chưa khai thác được hết lợi thế của vị trí hiện tại trên bản đồ cà phê thế giới để khẳng định tầm quan trọng của cà phê Việt Nam trong chuỗi cung ứng cà phê toàn cầu.

Trong thời điểm 2 tháng đầu năm 2023, giá Robusta giao dịch trên Sở ICE London bắt đầu xu hướng tăng mới khi Việt Nam đang là nguồn cung lớn duy nhất có sẵn trên thị trường. Việc nông dân hạn chế bán hàng trước và trong dịp Tết Nguyên đán khiến xuất khẩu sụt giảm mạnh trong tháng 1 cũng như 2 tháng đầu năm. Theo thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê trong tháng 1 tại Việt Nam đạt 160.000 tấn, giảm mạnh gần 40% so với cùng kỳ năm 2022 và lũy kế trong 2 tháng đầu năm cũng ghi nhận mức giảm gần 8% so với 2 tháng đầu năm ngoái. Đây cũng là lý do được giới phân tích trong nước và quốc tế nhận định là nguyên nhân chính cho sự đà tăng của giá Robusta đang giao dịch. Điều này như một tín hiệu cho thấy vai trò của Việt Nam đối với thị trường Robusta trên thế giới.

Tuy vậy, sự quan trọng trên chỉ đến từ khối lượng trong xuất khẩu thô của Việt Nam, dòng sản phẩm vốn mang lại giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị của ngành cà phê. Ở trên các khía cạnh khác như giá trị và sự phát triển bền vững của ngành cà phê, nước ta dường như vẫn chưa đặt đúng trọng tâm cũng như chưa thể hiện được đúng như vị thế. Mặc dù là quốc gia xuất khẩu lớn thứ 2 thế giới, hiện Việt Nam vẫn chưa có thương hiệu cà phê nào nằm trong nhóm 10 các thương hiệu cà phê lớn được ghi nhận. Sự cạnh tranh đến từ các cửa hàng cà phê lớn đã nhiêu lần làm điêu đứng các nhãn hàng cà phê Việt ngay trong thị trường nội địa.

Như đã đề cập ở trên, phần đa cà phê xuất khẩu của Việt Nam là ở dạng thô, chưa qua chế biến với giá trị gia tăng thấp. Do đó, cách giải quyết vấn đề chính là xuất phát từ gốc rễ của nó, từ việc nâng cao giá trị cho cà phê xuất khẩu bằng cách chuyển hướng từ xuất thô sang các sản phẩm mang lại giá trị gia tăng cao hơn như cà phê chế biến, cà phê đặc sản.

Việc chuyển hướng này không chỉ giúp ngành cà phê Việt Nam gia tăng giá trị mà còn vì tương lai phát triển bền vững của ngành khi việc mở rộng diện tích để tăng giá trị không còn là ưu tiên hàng đầu do các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là khu vực châu Âu mới ban hành lệnh cấm nhập khẩu cà phê có liên quan đến nạn chặt phá rừng.

Không chỉ dừng lại ở việc chế biến tinh để nâng cao giá trị, việc đưa giá trị văn hóa vào từng sản phẩm cà phê để tạo nên sự đặc biệt cho cà phê Việt Nam cũng là một hướng giải quyết đang được chú ý. 

Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu để khẳng định vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới, một bài toán vô cùng quan trọng để nâng cao chuỗi giá trị cho ngành cà phê Việt Nam đó là việc tập trung khai thác tiềm năng trong nước.

Là quốc gia gần 100 triệu dân với hơn 300.000 cửa hàng cà phê lớn nhỏ đang hoạt động với tốc độ tăng trưởng hàng năm trong giai đoạn 2016-2022 vào khoảng 2%, nhu cầu về tiêu thụ cà phê trong nước của Việt Nam đang cho thấy triển vọng rất lớn. Hơn nữa, tỷ lệ tiêu thụ cà phê trên đầu người của Việt Nam đang ở mức rất thấp, chỉ 2 kg/ người/ năm, thấp hơn rất nhiều so với nước xuất khẩu lớn như Brazil với 5,8 kg/ người/ năm hay các nước nhập khẩu hàng đầu như Mỹ với 4,2 kg/ người/ năm và Phần Lan 12kg/người/ năm. 

Không chỉ vậy, trung bình tỷ lệ tiêu thụ cà phê trong nước chỉ đạt khoảng 10% trong 10 năm trở lại đây, thấp hơn rất nhiều so với các nước xuất khẩu lớn như Brazil và Indonesia khi dao động từ 25-30% sản lượng cà phê sản xuất ra. Điều này cho thấy không gian rộng lớn trong việc đẩy mạnh tiêu thụ cà phê trong nước để góp phần phát triển ngành cà phê của Việt Nam.

Đặc biệt, trong bối cảnh thị trường quốc tế đang có những biến động lớn về nhu cầu tiêu thụ cà phê do lo ngại về cuộc suy thoái kinh tế trên diện rộng, những yêu cầu khắt khe hơn của thị trường nước ngoài trong chất lượng và nguồn gốc cà phê, việc ưu tiên phát triển thị trường nội địa làm nền nảng sẽ giúp ngành cà phê Việt Nam ổn định hơn trước những sóng gió của thị trường quốc tế.

Như vậy, với vai trò là quốc gia xuất khẩu cà phê nói chung lớn thứ 2 thế giới, Việt Nam đã phần nào cho thấy được tầm quan trọng của mình đối với nguồn cung toàn cầu cũng như diễn biến xu hướng giá. Tuy nhiên, việc khẳng định vị thế tại không chỉ dừng lại ở đó, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa việc gia tăng giá trị trên thị trường quốc tế đồng thời tập trung khai thác triển vọng phát triển của thị trường nội địa để cà phê Việt Nam ngày càng chứng minh vị thế quan trọng trên bản đồ cà phê quốc tế.

Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục