Chỉ số PMI thủng ngưỡng 50, ngành sản xuất Việt Nam đã mất đi động lực tăng trưởng trong tháng cuối năm 2024
Chỉ số PMI thủng ngưỡng 50, thị trường quan ngại chính sách thuế thời Trump 2.0
Hôm nay, S&P Global công bố báo cáo Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam tháng 12/2024. Trong đó, có 3 điểm nhấn quan trọng: Sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tăng yếu hơn; Niềm tin kinh doanh giảm đáng kể, ở mức thấp nhất trong vòng 19 tháng qua; Việc làm tiếp tục giảm.
Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng - Manufacturing Purchasing Managers Index™ (PMI®) - ngành sản xuất Việt Nam của S&P Global trong tháng 12 đã giảm xuống dưới ngưỡng 50 điểm, lần đầu tiên trong ba tháng khi đạt 49,8 điểm so với 50,8 điểm của tháng 11. Kết quả chỉ số cho thấy các điều kiện kinh doanh tổng thể đã suy giảm nhẹ vào thời điểm cuối năm.
Sức khỏe ngành sản xuất đã yếu đi bất kể sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới vẫn tăng khi các công ty giảm việc làm và mức tồn kho hàng mua. Mặc dù cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tăng trong tháng 12, tốc độ tăng chỉ là nhẹ và là yếu nhất trong chuỗi tăng trưởng ba tháng tương ứng của từng chỉ số. Một số công ty cho biết nhu cầu khách hàng cải thiện, trong khi những công ty khác lại báo cáo các điều kiện thị trường suy giảm.
Trong khi tổng số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng, tổng số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới lại giảm tháng thứ hai liên tiếp và tốc độ giảm là mạnh.
Đây là thời điểm kết thúc năm ảm đạm đối với ngành sản xuất Việt Nam khi sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm lại. Những bất ổn trên thị trường thế giới cũng làm giảm niềm tin kinh doanh khiến chỉ số này giảm thành mức thấp nhất trong hơn một năm rưỡi. Điều này một phần phản ánh tình trạng không chắc chắn liên quan đến những kế hoạch của chính quyền sắp tới của Mỹ về thuế quan. Những thông cáo tiếp theo về vấn đề này trong năm mới sẽ giúp làm sáng tỏ bất kỳ ảnh hưởng tiềm tàng nào lên các nhà sản xuất của Việt Nam.
Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence
Những lo ngại về sự bất ổn và không chắc chắn của thị trường thế giới đã làm giảm niềm tin về triển vọng sản lượng trong một năm tới. Tâm lý kinh doanh trong tháng 12 đã giảm đáng kể và là mức thấp nhất kể từ tháng 5/2023.
Việc làm tiếp tục giảm
Tuy nhiên, những hy vọng về khả năng tăng số lượng đơn đặt hàng mới, sự cải thiện của các điều kiện kinh tế và giải pháp cho một số cuộc xung đột trên thế giới khiến các công ty vẫn lạc quan rằng sản lượng sẽ tăng.
Dự kiến sản lượng tăng trong những tháng tới khiến các công ty đã gia tăng trở lại hoạt động mua hàng, và tốc độ tăng là nhanh nhất trong thời gian bốn tháng. Tuy nhiên, các công ty vẫn còn ngần ngại trong việc tích trữ quá nhiều hàng tồn kho, và từ đó đã giảm tồn kho hàng mua. Tồn kho hàng thành phẩm cũng giảm.
Báo cáo của S&P Global cho biết, các nhà sản xuất đã giảm việc làm tháng thứ ba liên tiếp vào cuối năm trong bối cảnh số lượng đơn đặt hàng mới tăng yếu. Mặc dù chỉ ở mức khiêm tốn, tốc độ giảm việc làm là mạnh nhất kể từ tháng 8.
Việc tiếp tục giảm việc làm vào thời điểm số lượng đơn đặt hàng mới tăng (cho dù là tăng nhẹ) khiến lượng công việc tồn đọng tiếp tục tăng trong tháng 12, từ đó kéo dài thời kỳ tăng lượng công việc tồn đọng hiện nay thành bảy tháng. Tuy nhiên, mức tăng lần này chỉ là nhẹ và là yếu nhất trong thời kỳ tăng này.
Áp lực lạm phát tăng cao - Khan hiếm nguyên vật liệu và biến động tỷ giá là 'thủ phạm'?
Áp lực lạm phát tăng lên trong tháng 12, với cả chi phí đầu vào và giá cả đầu ra tăng với tốc độ nhanh hơn so với tháng 11. Theo các thành viên nhóm khảo sát, tình trạng khan hiếm nguyên vật liệu và biến động tỷ giá hối đoái góp phần làm tăng chi phí đầu vào, với dầu và kim loại nằm trong số những mặt hàng được ghi nhận tăng giá.
Để đổi lại, các công ty đã tăng giá cả đầu ra tháng thứ tám liên tiếp, và tốc độ tăng là nhanh nhất kể từ tháng 7. Lần tăng này cũng mạnh hơn mức trung bình của lịch sử chỉ số.
Cuối cùng, thời gian giao hàng của nhà cung cấp đã bị kéo dài tháng thứ tư liên tiếp, và các công ty thường nhắc đến điều kiện giao thông chậm chạp. Tuy nhiên, mức độ kéo dài thời gian giao hàng chỉ là nhẹ, và lần kéo dài này là ít đáng chú ý nhất trong chuỗi thời gian suy giảm hiệu suất hoạt động của người bán hàng hiện nay.