Giá điện tăng 8,36%: Thêm gánh nặng dồn lên vai người dân

21/03/2019 07:45 GMT+7
Giá bán lẻ điện bình quân sẽ tăng 8,36% từ ngày hôm nay (20.3) với mức tăng 8,36%. Theo đó, giá điện dự kiến tăng từ 1.720 đồng lên khoảng 1.850 đồng/kWh (chưa gồm thuế VAT). Giá điện tăng, cộng hưởng mức tăng của giá xăng dự kiến sẽ tạo gánh nặng chi phí trên vai doanh nghiệp và người dân.

 

PGS. TS. Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế

PV Dân Việt đã có cuộc trao đổi với PGS. TS. Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế xung quanh vấn đề này.

Ẩn số khoản lỗ tỷ giá 10.000 tỷ đồng

Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về phương án tăng giá điện với mức tăng 8,36% so với giá điện bình quân hiện hành do Bộ Công Thương đề xuất?

Điện là lĩnh vực độc quyền, do Nhà nước kiểm soát thông qua cơ chế kiểm soát giá, định giá bán điện trong mỗi lần điều chỉnh. Vậy nên, khi các yếu tố đầu vào tạo nên giá điện đều tăng thì việc tăng giá điện là không tránh khỏi.

Theo quyết định 24/2017/QĐ-TTg quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân, thời gian điều chỉnh giá bán điện bình quân tối thiểu là 06 tháng kể từ lần điều chỉnh giá điện gần nhất. Hàng năm, sau khi kiểm tra giá thành sản xuất kinh doanh điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), giá bán điện bình quân được xem xét, điều chỉnh theo biến động khách quan thông số đầu vào của tất cả các khâu: phát điện, truyền tải điện, phân phối - bán lẻ điện, điều hành - quản lý ngành và dịch vụ phụ trợ hệ thống điện, so với thông số được sử dụng để xác định giá bán điện bình quân hiện hành.

Lẽ ra vào thời điểm cuối năm 2018, khi những yếu tố đầu vào gia tăng, ngành điện cần điều chỉnh tăng giá bán lẻ điện. Song với mục tiêu kiểm soát lạm phát, Chính phủ đã không cho phép điều chỉnh tăng giá điện vào thời điểm đó.

Ngoài ra, trong cơ cấu ngành điện hiện nay, nhiệt điện chiếm một tỷ lệ tương đối lớn, lên tới 51%. Tiếp theo, thuỷ điện cũng chiếm tỷ lệ 30%. Khi giá cả các nguyên liệu đầu vào như than, khí, dầu đều tăng, cộng thêm thiết bị do ngành điện nhập khẩu từ nước ngoài chiếm tới 70% trong bối cảnh tỷ giá ngoại tệ luôn biến động đã khiến các chi phí đầu vào tăng lên. Thêm vào đó, nhu cầu sử dụng điện trong nền kinh tế tăng trưởng rất nhanh, với tốc độ bình quân trên 10%/năm.

Ngành điện lúc này buộc phải điều chỉnh giá bán để đảm bảo đủ chi phí và có lợi nhuận phục vụ cho nhu cầu phát triển nội tại của ngành.

Về phía Nhà nước cần kiểm soát việc điều chỉnh tăng giá điện ở khía cạnh xem xét chi phí đầu vào hợp lý của tất cả các khâu là bao nhiêu? Từ đó, mới quyết định mức độ tăng giá mỗi lần điều chỉnh.

Dư luận đang băn khoăn khoản chênh lệch tỷ giá năm 2018 của giá điện khoảng 10.000 tỷ đồng. Vậy khoản chênh lệch tỷ giá của EVN thực tế là gì?

Khoản lỗ 10.000 tỷ đồng của giá điện do chênh lệch tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ khác. Khi ngành điện tiến hành mua sắm máy móc, nhập khẩu thiết bị từ nước ngoài, ban đầu, chúng ta xác định tỷ giá giữa VND và ngoại tệ giao dịch ở một mức giá. Song sau đó, do xảy ra biến động tỷ giá nên khoản chênh lệch về giá trị giao dịch phát sinh trong quá trình mua thiết bị từ nước ngoài càng lớn hơn.

Tuy nhiên, khoản chi phí này không phân bổ một lần, mà được phân bổ nhiều lần, vào nhiều thời điểm khác nhau. Có những khoản chi phí phát sinh do chênh lệch từ giai đoạn trước, tới nay vẫn tiếp tục được phân bổ, hạch toán vào chi phí sản xuất – kinh doanh của ngành điện.

EVN có cơ chế nào trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá không, thưa ông?

Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải thực hiện dự phòng rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất – kinh doanh. Với EVN, không chỉ phải phòng ngừa rủi ro tỷ giá do nhập khẩu tới 70% thiết bị từ nước ngoài, họ còn phải phòng ngừa rủi ro lãi suất do nguồn vốn thực hiện nhiều dự án của EVN là vốn đi vay. Ngoài ra, EVN dù nhận được nhiều ưu đãi khi vay ở các tổ chức quốc tế nhưng cũng có khoản vay thương mại.

Đây là vấn đề về mặt nghiệp vụ. Trong quá trình tính toán chi phí và rủi ro, vẫn có những yếu tố bất ngờ, không thể lường trước toàn bộ. Trách nhiệm kiểm tra, xem xét hoạt động hạch toán chi phí, sử dụng nguồn vốn của EVN có đúng và hiệu quả hay không thuộc về Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan thanh tra của Bộ Tài chính, Bộ Công Thương…

Điều tôi quan tâm là tất cả các chi phí phía EVN, Bộ Công Thương tính toán để đưa ra đề xuất điều chỉnh tăng giá điện đã hợp lý hay chưa?

Vừa qua, ngành điện đã có những tiến bộ. Năng suất lao động của họ đã tăng lên, không còn xuất hiện những lao động thủ công thực hiện công việc thu tiền điện, đếm số điện. Hao hụt điện trước đây rất lớn, song so với các nước trong khu vực hiện nay, Việt Nam là một trong số các quốc gia có số hao hụt điện trong quá trình tiêu thụ thấp nhất. Chỉ số tiếp cận điện năng của người tiêu dùng cũng rất cao.

Nhân dịp giá điện tăng, nhiều mặt hàng “tát nước theo mưa”?

Có ý kiến cho rằng việc tăng giá điện ở mức 8,36% sẽ góp phần giải tỏa gánh nặng cho ngành điện khi những áp lực chi phí đầu vào liên tục tăng suốt thời gian qua. Song gánh nặng này lại dồn lên người dân, doanh nghiệp. Quan điểm của ông về vấn đề này?

Giống như xăng dầu, điện vừa là nguyên liệu đầu vào quan trọng của nhiều ngành sản xuất, vừa phục vụ đời sống tiêu dùng của người dân. Mỗi lần điều chỉnh tăng giá điện đều tạo tác động lớn tới đời sống sản xuất – tiêu dùng. Đây là lý do khiến điện lực, dù là lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao, nhưng Nhà nước vẫn nắm quyền kiểm soát, quản lý.

Tìm hiểu thông tin từ nhiều quốc gia trên thế giới, tôi chưa chưa thấy quốc gia nào thực sự mở cửa cho thành phần kinh tế tư nhân cùng tham gia vào lĩnh vực sản xuất – kinh doanh điện. Ngay cả một quốc gia phát triển như Singapore cũng mới mở cửa cho phép cạnh tranh ở lĩnh vực cung cấp điện cho sinh hoạt thôi.

Ở Việt Nam, các cơ quan chức năng phải chịu trách nhiệm lớn trước người dân mỗi lần tăng giá điện. Tăng giá điện sẽ làm tăng chỉ số sản xuất (PPI), dẫn tới tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI), rồi làm giảm chỉ số tăng trưởng kinh tế (GDP).

Những lĩnh vực tiêu tụ điện lớn như xi măng, hoá chất, luyệt kim sẽ chịu tác động trực tiếp. Người dân nếu tiêu thụ điện nhiều cũng sẽ chịu tác động gần như ngay lập tức.

Ở đây, ngành điện phải có vai trò trong hướng dẫn, tuyên truyền tới người dân, doanh nghiệp tiết kiệm điện năng. Song khi họ bỏ tiền thực hiện chương trình, lại không được Bộ Tài chính cho phép tính vào chi phí hoạt động sản xuất – kinh doanh.

Đối với tác động gián tiếp, rất nhiều mặt hàng sẽ tranh thủ “tát nước theo mưa”, gây ra tác động lan chuyền. Bên cạnh đó, các yếu tố như thiên tai, dịch bệnh luôn rình rập. Hiện tại, dịch tả lợn châu Phi đang lan rộng. Lúc này, các đơn vị, hộ chăn nuôi lợn sẽ không thực hiện việc tái đàn mạnh. Tôi lo lắng sau khi dịch tả lợn châu Phi kết thúc, nguồn cung thịt lợn giảm sút sẽ khiến giá thịt lợn tăng. Còn tỷ trọng tiêu dùng thịt lợn của người Việt Nam khá lớn. Vậy nên, dịch tả lợn châu Phi là một trong những yếu tố cảnh báo đòi hỏi Nhà nước phải có biện pháp phản ứng kịp thời.

Vấn đề nữa là giá dầu thế giới vẫn là ẩn số khó lường. Từ 1.1.2019, thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu lên kịch trần nhưng ta thấy giá xăng dầu vẫn giảm. Tuy nhiên, trong năm nay sản xuất nếu phục hồi hay do biến động chính trị thì vẫn làm giá dầu thay đổi.

Phương Tây có một cách so sánh rất hay: “Lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người dân”. Lạm phát gia tăng sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.

Theo tôi, Chính phủ phải có phương châm hành động quyết liệt. Tôi hy vọng năm 2019, với thành quả những năm trước, chúng ta có khả năng kiểm soát lạm phát, nâng cao năng suất lao động, tạo thêm công ăn việc làm… Nhưng quan trọng là lời nói đi đôi với hành động. 

Xin cảm ơn ông!

Hoàng Nhật
Cùng chuyên mục