Lãi suất tiết kiệm "nóng" trở lại: "Lý do bất khả kháng" cho cuộc đua hút tiền
Lãi suất tiết kiệm tăng tại 13 ngân hàng
Tính từ đầu tháng 11 đến nay, đã có 13 ngân hàng điểu chỉnh lãi suất huy động. Trong đó, 12 ngân hàng tăng lãi suất, bao gồm: VPBank, MB, HDBank, GPBank, BVBank, Sacombank, BaoViet Bank, PVCombank, Techcombank, LPBank, Cake by VPBank và MBV.
Dữ liệu cho thấy, tại các ngân hàng thương mại cổ phần, gửi tiền kỳ hạn một tháng lãi suất rơi vào khoảng 1,6-4,2%/năm. Với kỳ hạn 3 tháng, mức lãi suất tiết kiệm thường dao động 1,9-4,4%/năm; kỳ hạn 6 tháng dao động khoảng 2,9-5,3%/năm.
Kỳ hạn 12 tháng lãi suất ở mức 4,7-5,3%/năm. Với kỳ hạn dài 18-24 tháng trở lên, phần lớn ngân hàng trả lãi dao động từ 5,8-6% trở lên (tuỳ điều kiện gửi).
Trong đó, Ngân hàng MBV đồng loạt tăng lãi suất huy động, đặc biệt đẩy kỳ hạn 3-5 tháng lên mức kịch trần 4,75%/năm. Kỳ hạn 1-2 tháng tăng mạnh lên 4,6-4,7%/năm.
Các kỳ hạn từ 6 đến 36 tháng cũng được điều chỉnh tăng 0,1-0,2%, lên tối đa 6%/năm. Với chương trình cộng thêm lãi suất tới 0,7%/năm, lãi suất thực nhận tại MBV có thể đạt 6,7%/năm. MBV là ngân hàng thứ 12 tăng lãi suất từ đầu tháng 11.
Cùng có mức lãi suất tiếp kiệm hấp dẫn, tại ABBANK, nhà băng này công bố lãi suất tiết kiệm tại quầy và online lên đến 6,8% với các kỳ hạn 6 tháng và 12 tháng. Đối với hai kỳ hạn này với lượng tiền gửi từ 1 tỷ đồng trở lên, mức lãi suất được cộng thêm 0,1%, tức 6,9%/năm.

Đáng chú ý, các ngân hàng thương mại không chỉ tăng lãi suất huy động mà còn đẩy mạnh ưu đãi cộng thêm lãi suất để hút tiền gửi, nổi bật là nhóm ngân hàng chuyển giao bắt buộc như GPBank, Vikki Bank và MBV.
GPBank sau khi kết thúc chương trình ưu đãi trước đã tiếp tục cộng thêm tối đa 0,8%/năm cho khách hàng VIP. Vikki Bank tặng thêm 0,2%/năm cho khách hàng thường và đến 0,4%/năm cho khách hàng làm việc trong lực lượng vũ trang, đưa lãi suất cao nhất lên 6,6%/năm.
Nhiều ngân hàng cổ phần khác cũng nhập cuộc, trong đó BVBank nổi bật với chương trình cộng thêm đến 1,3%/năm, giúp lãi suất một số kỳ hạn tăng lên 4,75%-6,9%/năm - hiện là mức hấp dẫn nhất trên thị trường.
Lý giải nguyên nhân lãi suất tiết kiệm tăng mạnh trong thời gian qua
Theo thống kê từ Chứng khoán KB, tính đến cuối tháng 9, tín dụng toàn hệ thống ngân hàng đã tăng 13,4% và là mức cao nhất nhiều năm, trong khi huy động vốn mới chỉ tăng 9,7%. Khoảng cách tăng trưởng này khiến thanh khoản hệ thống ngân hàng chịu áp lực và là nguyên nhân chính khiến các ngân hàng bắt đầu nâng lãi suất huy động.
Các chuyên gia phân tích nhận định, với định hướng nới lỏng chính sách tiền tệ xuyên suốt trong năm nay, mặt bằng lãi suất nhìn chung vẫn tương đối ổn định. Tuy nhiên, một số nhà băng ghi nhận tín dụng tăng trên 20% chỉ trong 9 tháng, là nguyên nhân chính tạo áp lực lên mặt bằng lãi suất huy động.
Còn theo ông Phạm Như Ánh, Tổng giám đốc MB, áp lực tỷ giá và mặt bằng lãi suất quốc tế cao là nguyên nhân khiến lãi suất trong nước tăng nhẹ thời gian qua.
Theo ông, yếu tố trực tiếp và rõ ràng nhất là áp lực lên tỷ giá đã chạm đến ngưỡng giới hạn cho phép của nhà điều hành. Mục tiêu tăng trưởng tỷ giá cho cả năm được đặt ra ở mức 3-5%, và hiện tại, không gian để sử dụng công cụ này gần như không còn.
"Trong bối cảnh tỷ giá chịu sức ép, việc lãi suất nhích lên là phù hợp với diễn biến thị trường. Việc tăng lãi suất sẽ giúp giảm sức hấp dẫn của việc nắm giữ ngoại tệ, qua đó góp phần bảo vệ giá trị của đồng Việt Nam", đại diện MB chia sẻ.
Ngoài yếu tố tỷ giá, chính sách tiền tệ của Mỹ cũng tác động đáng kể đến mặt bằng lãi suất tại Việt Nam. Hiện Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vẫn duy trì chính sách thắt chặt với mức lãi suất USD quanh 3,75-4%. Mặt bằng cao này khiến dòng vốn quốc tế có xu hướng ưu tiên các thị trường có lợi suất hấp dẫn hơn, làm giảm khả năng thu hút vốn vào các nền kinh tế mới nổi.
Theo ông Phạm Như Ánh, khi dòng tiền toàn cầu chưa quay trở lại mạnh mẽ, dư địa giảm lãi suất trong nước sẽ bị thu hẹp, buộc chính sách điều hành của Việt Nam phải linh hoạt hơn để cân bằng giữa ổn định tỷ giá và hỗ trợ tăng trưởng.
Dù chịu tác động từ yếu tố bên ngoài, ông Ánh cho rằng mặt bằng lãi suất tại Việt Nam vẫn nằm trong vùng cạnh tranh. Lãi suất cho vay phục vụ sản xuất - xuất nhập khẩu phổ biến 4,5-5,5%, thấp hơn đáng kể so với Mỹ (khoảng 7,5%). Đây là lợi thế giúp doanh nghiệp duy trì chi phí vốn hợp lý và tạo sức hút với các doanh nghiệp FDI, vốn đang mở rộng sản xuất tại Việt Nam trong năm nay.
Dự báo trong thời gian tới, Chứng khoán Vietcombank nhận định dư địa giảm lãi suất huy động trong thời gian tới gần như không còn.
Điều này xảy ra do 3 yếu tố chính, trong đó tín dụng nhiều khả năng bứt tốc vào cuối năm khi NHNN nới chỉ tiêu, buộc các ngân hàng - đặc biệt tại nhóm ngân hàng thương mại tư nhân - phải đẩy mạnh huy động vốn, làm gia tăng rủi ro thiếu hụt thanh khoản cục bộ.
Cùng với đó, áp lực tỷ giá USD/VND vẫn hiện hữu và thị trường bất động sản, tài sản tài chính tăng "nóng" làm gia tăng nhu cầu tín dụng rủi ro, tạo động lực gián tiếp cho việc điều chỉnh lãi suất huy động lên mức hợp lý để kiểm soát dòng vốn.
Ở góc nhìn quốc tế, ông Sacha Dray, Kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, cho biết đồng Việt Nam đã chịu áp lực do chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và các nền kinh tế lớn như Mỹ, khiến dòng vốn có xu hướng rời khỏi thị trường mới nổi. Ông đánh giá Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực duy trì tỷ giá trong biên độ cho phép để ổn định thị trường ngoại hối, song phải đánh đổi bằng việc giảm dự trữ ngoại hối.
"Chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn ở mức nới lỏng hợp lý để hỗ trợ tăng trưởng, nhưng dư địa cho nới lỏng thêm không còn nhiều khi lạm phát tiềm ẩn nguy cơ gia tăng", ông nói.
Chuyên gia WB khuyến nghị Việt Nam nên duy trì "vùng đệm an toàn" thông qua việc củng cố dự trữ ngoại hối và tăng cường linh hoạt tỷ giá nhằm hấp thụ các cú sốc từ bên ngoài, giải pháp từng phát huy hiệu quả trong giai đoạn căng thẳng thương mại năm 2018.
























