Dự thảo “Made in VietNam”: Vẫn cần giải thích chặt chẽ hơn

03/08/2019 08:02 GMT+7
Bộ Công Thương ban hành dự thảo Thông tư Quy định về cách xác định xuất xứ liên quan đến từng khâu từ sản xuất, gia công, chế biến các loại hàng hóa tuy nhiên cách áp dụng thực tiễn cần được hướng dẫn, giải thích chặt chẽ.

Cụ thể, tại điều 4 chương II Dự thảo thông tư về sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam và sản phẩm, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam quy định rõ các trường hợp được phép và cách thể hiện là hàng hóa của Việt Nam.

Theo đó, tùy thuộc vào quá trình sản xuất, gia công, tổ chức, cá nhân có thể sử dụng một trong các cụm từ trên nhãn hàng hóa: “sản phẩm của Việt Nam” hoặc “sản phẩm Việt Nam”; “Hàng hóa của Việt Nam” hoặc “hàng hóa Việt Nam” hoặc “hàng Việt Nam”; “Sản xuất tại Việt Nam” hoặc “Việt Nam sản xuất”…

Việc Bộ Công Thương đưa ra hệ thống thuật ngữ miêu tả sản phẩm, hàng hóa một cách chi tiết giống các nền kinh tế lớn trên thế giới được xem là phù hợp trong bối cảnh dư luận đang có các ý kiến khác nhau về việc xác định xuất xứ hàng hóa.

Vụ việc tập đoàn Asanzo "nhập nhằng" về nguồn gốc xuất xứ các sản phẩm tốn nhiều giấy mực thời gian qua.

Tuy nhiên, theo Dự thảo Thông tư việc hướng dẫn áp dụng các cụm từ trên lên các nhãn hàng vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể, tại điều 7, 8, 9 chương III, mới nêu các trường hợp được coi là hàng hóa của Việt Nam gồm có “hàng hóa có xuất xứ thuần túy” và “hàng hóa xuất xứ không thuần túy”.

Theo điều 8 Dự thảo, “hàng hóa có xuất xứ thuần túy” là các loại hàng hóa được sản xuất, chế tạo, nuôi trồng… hoàn toàn tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong điều kiện quốc tế hóa sản xuất hiện nay, rất nhiều hàng hóa được sản xuất, lắp ráp từ các nguyên phụ liệu, linh kiện từ nhiều nước khác nhau.

Do đó, khái niệm tại điều 9 về “hàng hóa có xuất xứ không thuần túy” được xem là nguyên tắc chung và cơ bản để xác định xuất xứ của hàng hóa dựa vào sự biến đổi đặc tính và giá trị gia tăng của hàng hóa.

Các sản phẩm có xuất xứ không thuần túy cần đạt mức giá trị gia tăng theo công thức tính do Bộ Công Thương đưa ra về “Hàm lượng giá trị gia tăng” (VAC) mới được coi là hàng hóa của Việt Nam.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, việc thẩm định tỉ lệ nội địa hóa của sản phẩm rất phức tạp cần nhiều cơ quan chuyên môn thực hiện. Việc xác định tỉ lệ nội địa hóa, xác định nguồn gốc xuất xứ để sử dụng các thuật ngữ miêu tả sản phẩm cho người tiêu dùng là rất cần thiết.

Lấy ví dụ như, Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC) của Mỹ có nhiệm vụ ngăn chặn gian lận và bất công bằng trên thị trường. Ngoài cụm từ cố định "Sản xuất tại" (Made in) và "Sản phẩm của" (Product of).

Theo FTC, các nhà sản xuất còn sử dụng các cụm từ như "assembled in…" (lắp ráp tại…), "designed by…” (thiết kế bởi…), "packaged in…" (đóng gói tại…) ,… khi sản phẩm không đủ tiêu chuẩn để được gắn "Made in USA" nhưng nó có thể được lắp ráp tại Mỹ, hay trong nguyên liệu có một hoặc một số thành phần xuất xứ từ Mỹ,…

Các tiêu chí nêu trên rất chặt chẽ và rõ ràng, trọng tâm là yếu tố "tất cả hay hầu như tất cả (all or virtually all) các phần của sản phẩm phải được làm từ Hoa Kỳ", có nghĩa các linh kiện quan trọng tác động đến giá trị của sản phẩm phải được sản xuất trong nước mới được dán nhãn "Made in USA".

Ngoài ra, các cụm từ "assembled in" (lắp ráp tại) cũng có quy định nghiêm ngặt trong cách sử dụng. Ví dụ: một chiếc máy tính, được lắp ráp các linh kiện tại Mỹ nhưng đơn giản chỉ là dây chuyền bắt vít cũng không cho dán nhãn "assembled in USA".

Bên cạnh đó, FTC còn hướng dẫn sử dụng phối hợp các thuật ngữ để làm rõ xuất xứ của sản phẩm giúp người tiêu dùng nắm bắt tốt hơn. Ví dụ sản phẩm iPhone của Apple có dòng chữ "Designed by Apple in California. Assembled in China" (Dịch: Do Apple thiết kế tại California và lắp ráp ở Trung Quốc).

Có thể thấy, việc mô tả chi tiết xuất xứ, nguồn gốc của sản phẩm là hết sức cần thiết và cấp bách. Tránh tình trạng các thương hiệu như Asanzo trong thời gian vừa qua được báo chí phản ánh có dấu hiệu “nhập nhằng” về xuất xứ.

Chủ tịch Asanzo, Phạm Văn Tam nói tỉ lệ nội địa hóa các sản phẩm của tập đoàn đạt 30-40% nên được coi là hàng hóa có xuất xứ Việt Nam. Tuy nhiên, chính ông Tam cũng thừa nhận, 30-40% tỉ lệ nội địa là "vỏ nhựa, thùng xốp, bao bì giấy, nhân công, nhà xưởng...".

Vụ việc đình đám khiến các cơ quan hoạch định chính sách cần có quy định cụ thể, chế tài xử lý nghiêm minh với hoạt động xác định nguồn gốc, xuất xứ các sản phẩm, hàng hóa.

Thanh Phong
Tags:
Cùng chuyên mục