Giá gỗ nguyên liệu nhập khẩu cao 'ngất' vì khan nguồn cung
Gỗ nhập khẩu lên tới 300 USD/m3
Theo tính toán mới nhất của Nhóm nghiên cứu của các Hiệp hội gỗ và Tổ chức Forest Trends dựa trên nguồn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2021, Việt Nam nhập trên 4,2 triệu m3 gỗ quy tròn là gỗ ít rủi ro theo tiêu chí của Nghị định 102/NĐ-CP quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam, từ 44 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Lượng nhập chiếm 72% trong tổng lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu vào Việt Nam trong cùng năm.
Năm 2021, có 13 quốc gia có lượng cung trên 100.000 m3 gỗ ít rủi ro từ mỗi quốc gia cho Việt Nam. Lượng cung từ 13 nguồn này chiếm trên 85% trong tổng lượng cung gỗ ít rủi ro vào Việt Nam trong cùng năm. Các quốc gia có lượng cung lớn nhất bao gồm Mỹ, Brazil, Chile, New Zealand, Australia và Bỉ.
“Với mức tăng trưởng trong khâu xuất khẩu khoảng 20% như hiện nay, cầu về gỗ nguyên liệu nhập khẩu sử dụng cho chế biến tại Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong tương lai”, ông Tô Xuân Phúc, chuyên gia phân tích chính sách, Tổ chức Forest Trends cho biết.
Đáng chú ý, ông Phúc thông tin thêm, đại dịch Covid-19 xảy ra gây đứt gãy chuỗi cung, khan hiếm container rỗng. Điều này làm chi phí vận chuyển đường biển quốc tế tăng phi mã.
Thông tin về chỉ số giá cước vận tải toàn cầu Drewry World Container cho thấy, cước phí vận chuyển đối với 1 container 40 feet đã tăng từ khoảng dưới 1.500 USD vào tháng 7/2019 lên tới gần 8.500 USD vào tháng 7/2021, tăng gần 6 lần trong vòng 5 năm.
Bên cạnh giá cước vận chuyển tăng, đại dịch với các hoạt động giãn cách cũng tạo ra sự khan hiếm nguồn cung gỗ tại một số quốc gia cung gỗ chính cho Việt Nam, đặc biệt là đối với các nguồn cung rủi ro thấp như Mỹ và các nước châu Âu.
Các gói kích cầu và nguồn vay lãi suất thấp tại các quốc gia này làm bùng nổ nhu cầu xây dựng có sử dụng gỗ nguyên liệu tại đây. Nguồn gỗ xuất khẩu càng trở nên khan hiếm, đẩy giá gỗ nguyên liệu tăng cao. Hiện nay, nhiều nhà cung đang chào gỗ cho các doanh nghiệp Việt Nam với mức giá cao hơn rất nhiều so với trước đó.
Đại diện một công ty chuyên làm đồ ngoài trời tại Quy Nhơn cho biết, hiện đang có doanh nghiệp chào gỗ nhập khẩu với mức giá 215 USD/m3 gỗ bạch đàn xẻ, trong khi mức giá cao nhất trước đó mà doanh nghiệp này mua chỉ là 172-175 USD/m3.
Tương tự, một doanh nghiệp khác tại Quy Nhơn cũng chia sẻ, có những lô gỗ bạch đàn nhập về cảng giá đã lên tới 300 USD/m3, mức cao nhất trong lịch sử. Giá gỗ nguyên liệu nhập khẩu cao trong khi giá sản phẩm đầu gia không đổi làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm mạnh.
Ông Phúc cho rằng, giá cước vận chuyển và giá gỗ tăng làm cho ngành gỗ Việt Nam giảm lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế.
Mặt khác, do thiếu container rỗng, thời gian vận chuyển hiện kéo dài hơn 4-5 lần so với trước thời điểm dịch. Điều này làm nhiều doanh nghiệp không chủ động được nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào và trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, kế hoạch giao hàng.
Cần cơ chế, chính sách đột phá
Nguồn gỗ rừng trồng trong nước đã được kỳ vọng là một trong những nguồn cung quan trọng để thay thế nguồn cung nhập khẩu. Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn rất nhiều hạn chế để tạo ra nguồn cung gỗ rừng trong trong nước có chất lượng.
Phần lớn gỗ rừng trồng của Việt Nam là gỗ nhỏ, với 60-70% được đưa vào làm dăm gỗ và viên nén. Lượng gỗ lớn, đặc biệt là gỗ có Chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC) vẫn rất hạn chế.
Thời gian tới, để tạo được nguồn gỗ nguyên liệu trong nước phục vụ tiêu dùng nội địa và chế biến xuất khẩu, ông Tô Xuân Phúc nhấn mạnh đòi hỏi các cơ chế, chính sách về liên kết chuỗi và về đất đai có những thay đổi mang tính đột phá.
Cụ thể, các chính sách về đất đai, liên kết hợp tác kinh doanh trong ngành cần thay đổi theo hướng tạo môi trường thúc đẩy hình thành liên kết, “cởi trói” và giải phóng tiềm năng về đất đai thông qua các mô hình liên kết.
Cần siết chặt kiểm soát gỗ rủi ro nhập khẩu, quản lý và minh bạch hóa thị trường nội địa sẽ giúp giảm lượng cung gỗ rủi ro nhập khẩu, từ đó tạo cơ hội cho các nguồn gỗ rừng trồng trong nước, bao gồm cả gỗ tạo ra bởi các mô hình liên kết phát triển; cần đa dạng hóa các loài cây nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về chủng loại sản phẩm.
“Các cơ chế chính sách này sẽ tạo ra động lực nhằm giúp ngành giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, giúp nâng hình ảnh và vị thế ngành gỗ Việt trên trường quốc tế; đồng thời trực tiếp thúc đẩy mở rộng các diện tích rừng chất lượng cao tại Việt Nam trong tương lai”, ông Phúc nhìn nhận.
Mỗi năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 5-6 triệu m3 gỗ tròn và gỗ xẻ (gỗ nguyên liệu) để chế biến ra các sản phẩm gỗ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Các loài gỗ ôn đới chiếm 60-70% trong tổng lượng nhập khẩu, với Mỹ và các quốc gia châu Âu, Canada, Australia là các nguồn cung lớn nhất. Phần nhập khẩu còn lại (30-40%) lại là gỗ nhiệt đới, chủ yếu có nguồn gốc từ các nước châu Phi, Lào, Campuchia, Papua New Guinea và một số quốc gia khác.